LỄ CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán:
“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận
người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt
thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời” (Mt 10, 32-33).
2. CÂU CHUYỆN: CUỘC TỬ ĐẠO
CỦA THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC
TRẦN
AN DŨNG LẠC
sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha
mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi
và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó
cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy
AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ
phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng
đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha
còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng
tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được
thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ:
Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã
tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao
thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở
Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc
về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị
bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi
tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền
nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính
khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về
Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường
tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì
làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói:
“Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh
vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ
Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài
vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha
luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy
giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn
ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính
canh.
Ngày 21
tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi
các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện
ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13
đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900.
Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai
ngài lên bậc hiển thánh.
3. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công
giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?
2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm
chứng cho Chúa (x. Cv 1, 8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm
chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay ?
4. SUY NIỆM:
1) SỐ LIỆU CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ
Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách,
bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị
anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ
thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại
với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt
Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới
hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà
Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân
đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II
tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội
Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và
42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém
đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi
bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) LÝ DO CÁC NGÀI BỊ VUA QUAN BÁCH HẠI:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó
thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian
ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng
đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo
lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em
sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu
thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra
tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo
đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang
khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo
Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải
chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và
tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống
cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do
chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét
bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các
tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan,
trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân
đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và
lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của
Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của
Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng
trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt
Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan
theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) SỐNG
CHỨNG NHÂN GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian
nan thử thách là do các ngài biết “sống
sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã
hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra
trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết
đi cho bản thân”, và sống trong
ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta
không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta
vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng
ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
- Để có thể sẵn sàng hy
sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống
đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi
phố chợ.
- Để có thể dũng cảm làm
chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải
là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia
đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông
bà;
- Để sau này có thể trở
thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người
công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ
bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng
ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em
sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con
đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các
đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống
lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh
Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt
người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm
quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro;
biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh
đang cần được cảm thông trợ giúp.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM