LỄ HIỆN XUỐNG
SỐNG! Được sống sung mãn và mãi mãi! Đó là ước vọng bản năng của con người từ khi được tạo dựng. Giam hãm con người trong chính mình, tội lỗi đã làm cho những cố gắng của họ thất bại. Mạc khải Ki tô giáo khẳng định cuộc sống đích thực là Thánh Thần, là quà tặng ân sủng Thiên Chúa ban cho chúng ta. Lễ Hiện Xuống, lễ của Thánh Thần đánh dấu điểm đến của Phục sinh. Chính từ biến cố ấy mà Thiên Chúa bắt đầu việc tái tạo canh tân thế giới.
Sách Công vụ 2, 1-11
Hiện Xuống là một điểm khởi hành. Phần tiếp theo trong Công vụ các tông đồ nhằm mục đích cho thấy sự hiện diện của Thánh Thần lan truyền bành trướng trong khắp thế gian. Qua đó, công việc tái hợp nhận loại, được loan báo từ lâu, nay được thực hiện nhờ những tín hữu được Tình yêu Thiên Chúa cảm biến.
Thánh Vịnh 103
Người Do thái ca ngợi Thần Khí Thiên Chúa, nguồn sự sống và thiên nhiên. Đối với người Ki tô hữu, Thần Khí ấy là nguồn đích thực cho việc tái tạo thế giới phản ánh vinh quang Thiên Chúa.
Thư gửi Côrintô 12, 3b-7.12-13
Các ơn ban và đặc sủng chỉ có nghĩa trong mức độ trợ giúp cộng đoàn tự xây dựng trong tình yêu. Cũng vậy, các vai trò khác biệt không cho phép bất cứ ai nghĩ mình ở trên người khác. Mỗi người có một vị trí không thể thay thế trong một tổng thể hợp nhất bởi Thánh Thần nhằm qui tụ tất cả mọi người trong Tình yêu.
Tin mừng: Ga 20,19-23
NGỮ CẢNH
Trong bốn sách Tin Mừng, chóp đỉnh của các trình thuật Chúa Giê su sống lại là việc Người hiện ra cho nhóm Mười Một qui tụ ở một nơi. Dù cho hoàn cảnh và các chi tiết có khác nhau, thì mối quan tâm vẫn luôn luôn là một: các tác giả đều nhấn mạnh đến sự thử thách của đức tin. Riêng đối với Gioan trong câu chuyện về ông Tôma, tác giả đề cao sự tiến triển đức tin vào Chúa Giê su sống lại qua khung cảnh được diễn ra trong hai giai đoạn. Và trình thuật khép lại với một vài khẳng định cốt yếu: ơn ban Thánh Thần, ơn tha tội, sai đi truyền giáo, khẳng định của niềm tin hoàn toàn vào Chúa Giê su, là Chúa và là Thiên Chúa.
Có thể đọc đọan tin mừng theo bố cục sau đây :
1. Khung cảnh Chúa Giê su phục sinh hiện đến và chúc bình an cho các môn đệ (20,19)
2. Các môn đệ vui mừng vì nhìn thấy Chúa (20,20)
3. Chúc bình an và sai đi (20,21)
4. Ban Thánh Thần (20,22)
5. Ban quyền tha tội và cầm buộc (20,23)
TÌM HIỂU
Vào chiều ngày ấy: bà Maria Mađalêna đi ra mồ từ « sáng sớm » (20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài đã trôi qua trước cuộc hội ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ tuy xảy ra vào buổi chiều (6,16; 13-17), nhưng vẫn còn thuộc ngày thứ nhất (20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Mađalêna đầy sự ngẫu hứng và yêu mến. Bà đi thẳng đến Chúa và đã gặp được Ngài. Còn các môn đệ thì khác thì chưa hết « sốc » bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù nghe những bước chân dồn dập của Phêrô và Gioan, họ vẫn còn lẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa Giê su cần phải ban cho họ niềm xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật nầy có lẽ phản ánh nỗi khó khăn mà Hội Thánh gặp phải: một vài người mạnh dạn đến với Chúa, trong sự đơn sơ của niềm tin; trái lại một số khác thì chậm chạp hơn vì nhiều thử thách mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: « Đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ » (Mt 18,20).
« Bình an cho anh em »: lời chào được lặp lại ở câu 21. Đó là câu chào hỏi bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy nhiên, bình an là một khái niệm giàu ý nghĩa bao hàm toàn bộ những gì làm cho cuộc sống hạnh phúc. Sự bình an của thời đại cánh chung là ơn ban quí giá nhất mà Thiên Chúa dành cho con người đã được các tiên tri báo trước. Ơn trên được ban xuống là nhờ vào những nỗi khổ đau mà Người Tôi Tớ phải gánh chịu: «Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành » (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở giữa các môn đệ của Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho họ sự bình an (x.14,27; 16,33). Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ thuộc về Ngài trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: « Ngài là chính sự bình an của chúng ta » (Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở Lc 24,39, Chúa Giê su muốn liên kết các nổi đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc phục sinh của Ngài, khi tỏ cho thấy các vết thương của Ngài. Chỉ có Gioan nói, và nói ba lần (ở đây và cc, 25-27), đến vết thương cạnh sườn Ngài (x. 19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: « Để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con » (Ga 17,l3).
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ của Ngài không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai phái họ ra đi. Cả bốn tin mừng đều đồng qui về điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc 24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những đối tượng của lời cầu nguyện mà Chúa Giê su dành cho các môn đệ của Ngài (17,18). Và cũng nhằm nối tiếp sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su lặp lại « Bình an cho các con ». Ra đi vào thế gian, họ mang theo mình sự bình an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gioan, cử chỉ nầy là dấu chỉ đưa đến một thực tại sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao lại trên thánh giá (19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần đó được liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Luca bố trí biến cố Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng đặt mối tương quan đó trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính ngày Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê su, lịch sử cứu độ đạt đến giai đoạn cuối cùng. Vào lúc khởi đầu: Thiên Chúa đã ‘thổi sinh khí’ (Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung tâm thế giới mới, mà ngài đã tác sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính Thiên Chúa để làm cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao hồm việc tha tội (x. Lc 24,47). Từ đầu sách tin mừng Gioan đã xuất hiện một lời mời gọi tiếp nhận sự sống ngang qua niềm tin vào Chúa Giê su; do đó, tội lỗi căn bản chính là sự từ chối tin. Gia nhập vào cộng đoàn các tín hữu, những người tin vào Chúa Giê su phục sinh, là xác nhận rằng tội riêng đã được tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song đối của một tổng thể duy nhất là sứ mạng của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn cứu độ (3,16-17; 5,20-30).
SỨ ĐIỆP
“Buổi chiều ngày phục sinh, các môn đệ đóng kín cửa vì sợ người do thái”. Câu đầu tiên trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe đặc biệt gây ấn tượng. Ngày Chúa Giê su sống lại đối với họ là một ngày đầy căng thẳng và xáo trộn. Từ khi Thầy mình bị bắt, nhất là từ khi chết trên cây Thánh giá, mọi hi vọng đều tan biến. Họ nghĩ rằng họ không còn được nghe giọng nói quen thuộc của vị tiên tri Ga li lê nữa, người đã loan báo cho họ Nước Trời đang đến. Họ không còn hi vọng được thấy các phép lạ của Ngài nữa. Cái chết đã chấm dứt cuộc phiêu lưu kì thú mà họ đã trải qua.
Thế mà Chúa sống lại hiện ra với các bạn bè của họ. Sự sợ hãi nhường chỗ cho niềm vui. Cuộc phiêu lưu hạnh phúc sẽ lại bắt đầu trên những nẻo đường Ga lli lê và Giu đê a chăng? Và có phải đây là giờ thiết lập Vương quốc ở Israen không? Những lời Thầy nói thật mầu nhiệm: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và họ có hiểu ý nghĩa và tầm quan trong của câu nói theo sau: “Ngài thổi hơi trên họ và bảo họ: Hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần” không?”
Sách Công vụ kể lại cho chúng ta nghe câu truyện tiếp theo: Vào buổi sáng ngày Hiện xuống, các tông đồ và môn đệ kết thúc tuần cầu nguyện của họ. Những người mà sau cái chết của Chúa Giê su chỉ nghĩ đến việc ẩn trốn, thì giờ ra giữa đám đông, lại mạnh dạn bắt đầu rao giảng những điều kì diệu mà Thiên Chúa đã làm: “ Ông Giê su người Na gia rét, con người được Thiên Chúa ủy thác bằng các phép lạ ở giữa anh em, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại”. Thật là một sự thay đổi kì diệu nơi những người ấy ! Thật thế, Chúa Thánh Thần là động cơ thúc đẩy sám hối khiến cho đám đông phải sửng sốt.
Giáo hội của lễ Hiện xuống là Giáo hội tuyên xưng lớn tiếng niềm tin của mình vào Chúa Giê su phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Phê rô chúng ta đã biết: “Tất cả nhà Israel đều biết rõ rằng: Thiên Chúa đã phong làm Chúa và Đức Ki tô cho ông Giê su mà anh em đã đóng đinh”.
Giáo Hội của Lễ Hiện xuống đầu tiên là một Giáo Hội khao khát lời Thiên Chúa nuôi dưỡng họ, một Giáo hội ra sức cầu nguyện, chăm chú vào giáo huấn của các tông đồ. Đó là Giáo hội của tình yêu huynh đệ và chia sẻ, hiệp thông trong việc cử hành Thánh Thể.
Giáo hội chúng ta ngày nay cũng là Giáo Hội của lễ Hiện xuống, mà Chúa Thánh Thần đã linh hoạt và nuôi dưỡng, soi sáng và thanh luyện, củng cố trong những cuộc chiến đấu khó khăn chống lại các thế lực sự dữ lầm lạc, dối trá, lôi cuốn của tất cả các thần tượng và làm gẩy đổ mọi sự.
Giáo hội ngày nay lả Giáo hội cố gắng thiết lập trên trần gian vương quốc của Chúa Giê su Ki tô không dựa vào mãnh lực của tiền bạc hay uy tín nhưng bằng sự loan báo Lời Thiên Chúa, Giáo hội tìm cách qui tụ gia đình nhân lọai trong một cộng đoàn rộng lớn sống tình huynh đệ.
Giáo hội ngày nay là giáo hội bênh vực con người, hình ảnh Thiên Chúa, Giáo hội sai các phần tử của mình đến với mọi người anh em của họ, để mang lại nhiều công bằng hơn, nhiều tự do hơn trong các mối tương quan xã hội, trong tổ chức trần thế, ngỏ hầu chương trình cứu độ Thiên Chúa đề nghị cho chúng ta được thực hiện.
Giáo hội ngày nay không mất viễn ảnh “trời mới đất mới” mà sách Khải Huyền gợi lên. Bổn phận của Giáo hội nơi trần thế không che khuất bổn phận trên trời: “Nầy đây nơi ở của Thiên Chúa giữa con người. Thiên Chúa ở với họ sẽ là Thiên Chúa của chúng. Sẽ không còn chết chóc, kêu là và sẽ không còn đau khổ nữa, vì thế giới cũ đã biến mất”».
Giáo hội ngày nay ghi nhớ lời Chúa Giê su: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Hãy làm việc không vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực tồn tại cho sự sống vĩnh cửu”.
Dưới ánh sáng lời Chúa Giê su, đã đến lúc chúng ta tự hỏi để chỉnh đốn lại: Các cộng đòan ki tô của chúng ta có mang diện mạo của Giáo Hội ngày Hiện xuống không ? Chúng ta có phải là những ki tô hữu đầy lòng tin tưởng, chắc chắn về Chúa của mình không ? Người ki tô hữu có dạn dĩ công bố Tin mừng không ? Người ki tô hữu có vui mừng chia sẻ của cải vật chất và cả những của cải đức tin không? Tắt một lời, chúng ta có để cho Thánh Thần hoạt động trong chúng ta không ?
Chúng ta ngưỡng mộ Mẹ Têrêxa Calcutta, thầy Phêrô và nhiều vị khác. Ở nhiều nước trên thế giới, người ki tô hữu bị bách hại vì họ muốn sống theo lô gíc của đức tin. Chúng ta đã gặp nhiều người thuộc đủ mọi tầng lớp sống đơn sơ trong cuộc sống hằng ngày, nhưng nhiệt thành dấn thân cho người khác. Có những người ki tô hữu chiến đấu cho hòa bình công lí, tự do, những người ki tô hữu quan tâm đến việc giải tỏa những hiểu sai của người đương thời về Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cũng gặp những người ki tô hữu lo sợ những đòi hỏi của Tin Mừng, những người ki tô hữu bằng lòng trong lối mòn và tầm thường, tiếc nuối quá khứ, ẩn mình trong việc chiêm ngắm Giáo hội của ngày hôm qua và không dám đảm nhận trách nhiệm của Giáo hội ngày hôm nay. Chúa Giê su nói: “Dân tộc nầy thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta”.
Có khi nào chúng ta khóa kín tâm hồn lại để tránh tiếp xúc với những người không cùng ý tưởng với chúng ta, những người không thuộc thế giới chúng ta không? Thế nhưng Chúa Giê su đòi chúng ta yêu mến thù địch và làm ơn cho những kẻ ghen ghét chúng ta.
Thánh Thần biến đổi các tông đồ. Ngài đã kéo họ ra khỏi pháo đài để ra đi rao giảng Tin mừng Cứu độ. Chúng ta hãy để cho Ngài biến đổi chúng ta. Hãy mở rộng thần trí và tâm hồn chúng ta đón nhận hơi thở của Ngài để hiểu rõ hơn sứ điệp của Chúa Giê su, ngỏ hầu yêu mến anh em chúng ta hơn và loan báo cho họ Tin mừng với một niềm đam mê mà không gì có thể ngăn chận được.
ĐÀO SÂU
1. HỎI. Khi mừng trọng thể lễ Hiện Xuống, chúng ta kính nhớ biếncố nào?
THƯA. Chúng ta kính nhớ việc Chúa Thánh Thần tỏ hiện, ban xuống đầy ơn của Ngài cho Đức Maria, và các tông đồ tụ họp cầu nguyện ở nhà Tiệc li. Như thế, Chúa Thánh Thần khai mạc Sứ mạng “An ủi” của Người; Người ban cho các tông đồ và môn đệ Chúa Giê su được can đảm, giúp họ hiểu Kinh Thánh hơn và nhất là Sứ mạng Cứu thế được Đấng Messia thực hiện và nâng đỡ họ trong công trình hiện thực sự “Ủy Nhiệm” (Ga 20,21) đã lãnh nhận từ Thầy.
2. HỎI. Đâu là Ân sủng mà người ta lãnh nhận từ lễ kỉ niệm Biến cố Hiện xuống?
THƯA. Đó là ơn Hiệp nhất, Thông hiểu và Sống chung với nhau. Ngày nay hơn lúc nào hết chúng ta cần đến Ơn sủng ấy, vì việc cảm thông giữa con người càng ngày càng trở nên khó khăn hơn, dù phương tiên truyền thông trở nên phổ biến và dễ dàng hơn.
3. HỎI. Biến cố Hiện xuống có liên quan gì đến câu chuyện tháp Ba bên được kể lại trong Cựu Ước?
THƯA. Theo một nghĩa nào đó là có. Câu truyện xây tháp Ba bên là truyện kể về một Vương quốc trong đó qui tụ nhiều quyền hành đến nỗi khiến cho các cư dân nghĩ rằng không cần đến một thần linh xa xôi nào nữa, vì không thể có những dấu chỉ rõ ràng cho thấy hiện hữu. Thế là họ bắt đầu vận dụng mọi sức lực để xây cho mình một con đường lên trời, để trở thành thần linh và tạo ra một thiêng đàng đáp ứng mọi ước vọng.
4. HỎI. Họ có thành công trong việc tạo nên một thiêng đàng không?
THƯA. Dù cho tất cả đều đồng tâm hiệp lực chung tay xây dựng, họ cũng không thành công. Đằng nầy, họ lại chống đối nhau, và vì muốn trở thành thần linh, nên họ đã đánh mất cả phẩm chất của con người và phá hủy điều nhân bản nhất: đó là sự hòa thuận và khả năng hiểu nhau.
6. HỎI. Ngày nay, huyền thọai tháp Ba bên có còn không?
THƯA. Rất tiếc là có, và hơn bao giờ hết, huyền thoại ấy vẫn còn hiện diện qua nhiều hình thức trong thế giới hôm nay. Nhờ sự tiến bộ của Khoa Học Kĩ thuật, con người ngày nay đã nắm trong tay nhiều khả năng đi vào tận thế giới nhỏ nhất, hay mở rộng biên cương vũ trụ. Người ta đang sống lại cùng một trải nghiệm của huyền thọai: trong khi cùng chia sẻ ngôn ngữ, thông tin, cung cách sống, người ta lại càng ít hiểu biết nhau và ít yêu mến nhau hơn, và càng xa rời Thiên Chúa. Càng ngày người ta ngờ vực, càng nghi kị, sợ sệt nhau, dửng dưng, ích kỉ…
7. HỎI. Lời khuyên nào Kinh Thánh dành cho chúng ta nhất là trong Phụng vụ hôm nay?
THƯA. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng sự hiệp nhất đích thực chỉ được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần ban cho một tâm hồn mới và một ngôn ngữ mới.
8. HỎI. Hai động từ nào chỉ hành động mới của Thánh Thần ngang qua Đức Ki tô, được biểu hiện trong thế giới?
THƯA. Đó là hai động từ: thổi hơi và thở, được dùng để nói về việc Tạo dựng (x. St 2,7; Kn 15,11). Chúa Giê su thổi hơi, tức là ban Thần khí sự sống đời đời trên các tông đồ đang tập họp lại để cầu nguyện. Đó là ơn ban cá nhân của Đức Ki tô: “Anh em hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần” và có mục đích đưa các biến cố ơn cứu độ tới đỉnh cao: Chúa Giê su được Cha sai đến và ban Thánh Thần. Ngài có thể làm điều đó vì đã được đặt làm Chúa nhờ Nhập thể, Khổ nạn và Sống lại-Thăng thiên. Vì là Chúa của Tạo vật hữu hình và vô hình, nhờ bản tính là Con muôn thuở, Ngài tiếp nhận mọi người như “con trong Con”. Chúa Thánh Thần là “Tình yêu ngôi vị” giúp cho các mọi dân tộc hiệp nhất sau khi phân tán vì bất đồng ngôn ngữ trong biến cố Ba bên (St 11,1-9; Đnl 32,1).
9. HỎI. Lễ Hiện Xuống có phải là lễ tôn giáo quan trọng nhất không?
THƯA. Đúng là như vậy. Đó là lễ lớn nhất, vì nó chỉ ra con đường cho tin mừng được loan báo trên tòan thế giới. Đó là lễ Truyền Giáo của Giáo Hội công bố cho mọi dân biết rằng Thiên Chúa Ba Ngôi ba lần thánh là Tình yêu.
10. HỎI. Nhưng theo Phụng vụ, thì lễ Hiện Xuống nói lên điều gì?
THƯA. Lễ Hiện Xuống là cao điểm của các lễ mùa Phục sinh và cùng với lễ Phục sinh, là đỉnh cao của Năm Phụng vụ. Đó là lễ của Thánh Thần và là lễ của Giáo Hội, là ngày sinh ra Giáo Hội. Nó nhắc chúng ta nhờ đến sự hiện diện và hoạt động kì diệu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống con người. Hơn bao giờ hết, nhân lọai có trách nhiệm to lớn là không được dập tắc hay cản trở hành động nầy. Đức Gioan Phao lô II nói trong thông điệp Redemptoris Missio rằng: “Chúa Thánh Thần là nhân vật chính của Sứ mạng Giáo Hội”.
11. HỎI. Việc tắt nến Phục sinh có cho thấy Đức Ki tô vắng mặt trong Giáo hội không?
THƯA. Không hẳn là như thế, dù cho việc tắt nến Phục sinh được chỉ định trong ngày hôm nay, cho thấy một hình thức hiện diện mới của Đấng Phục sinh trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giữa các môn đệ và ngang qua các Ngài giữa mọi dân tộc.