CHỦ NHẬT 4
THƯỜNG NIÊN B
Chúa Giê su đi vào trần gian đã là một biến cố
gây sửng sốt cho người đương thời. Ngài là người thợ mộc vô danh, nhưng lại có
một cách nói năng đầy quyền uy như chưa từng có ai nói được như thế. Ngài hoàn
thành những điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có quyền năng thực hiện, thế nhưng
chỉ có những kẻ bé mọn và nghèo hèn mới có thể đến gần Ngài. Họ mạnh dạn đi
theo Ngài, và trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Sách Thứ Luật 18,15-20
Sách nầy là một cố gắng đọc lại các biến cố xảy
ra thời Xuất hành. Người ta học biết cách phân biệt những tiên tri thật và
những tiên tri giả. Mô sê là Vị Tiên tri tuyệt vời và chính ông loan báo một vị
Tiên tri đích thực khác sẽ đến, một Mô sê mới. Đọc lại Lịch sử Dân Thiên Chúa
sẽ cho chúng ta biết rằng chỉ có mình Chúa Giê su mới có thể thực hiện lời loan
báo của Mô sê. Ngài tự mặc khải là Con Thiên Chúa.
Thánh vịnh 94
Thánh vịnh nầy được Giáo Hội hát lên mỗi ngày,
giống như dân Do thái ngày xưa, là một lời ca tụng Chúa và mời gọi lắng nghe và
thờ phượng Ngài. Chúng ta đừng đóng kín tâm hồn nhưng hãy lắng nghe Lời Ngài,
vì đó là kho tàng không bao giờ vơi cạn.
Thư thứ 1
Côrintô 7, 32-35
Thánh Phao lô muốn rằng mọi người phải tự do
phụng sự Chúa. Ngài sợ rằng người ta cảm thấy bị phân tán giữa việc thờ phượng
Thiên Chúa và trách nhiệm của mỗi người. Ngài khuyến khích sống độc thân, nhưng
không can ngăn hay chê bai bậc hôn nhân.
Tin Mừng Mc
1, 21-28
NGỮ CẢNH
Đoạn tin mừng nầy nằm trong phân đoạn
1,21-2,12, trong đó Mác cô mô tả những bước đầu hoạt động công khai của Chúa
Giê su. Chắc chắn Mác cô muốn nêu bật tiến trình đi lên: trừ quỉ và chữa bệnh
không thôi chưa đủ; còn phải thực hiện những điều khác nữa: đến tận chính tâm
hồn con người, để biến đổi và tha thứ tội lỗi.
Có thể đọc phân đoạn nầy theo bố cục sau đây:
1. 1,21-28: Ngày sa bát, Chúa Giê su chữa cho một
người bị quỉ ám trong hội đường Caphácnaum.
2. 1,29-31: Chúa Giê su tiếp tục chữa cho bà mẹ
vợ ông Phê rô cũng trong ngày ấy.
3. 1,32-34: Ngày tiếp theo, Ngài chữa lành nhiều
bệnh nhân.
4. 1,35-39: Chúa Giê su ra đi cầu nguyện ở nơi
hoang địa vắng vẻ.
5. 1,40-45: Chúa Giê su chữa cho một người phung
cùi.
6. 2,1-12: Chúa Giê su chữa cho một
người bất toại.
Có thể đọc đoạn đầu tiên (1,21-28) theo bố cục
sau:
1,21-22: Chúa Giê su giảng dạy và phản ứng của
thính giả: ngạc nhiên thích thú.
1,23-24: Người quỉ ám đi vào, và tấn công Chúa
Giê su.
1,25-26: Chúa Giê su ra lệnh cho quỉ xuất khỏi
người ấy.
1,27-28: Phản ứng sợ hãi của dân, và tin đồn ra
khắp nơi.
GIẢI THÍCH
Đi vào: Một điều nên chú ý là trong tin mừng Mác
cô, Chúa Giê su không bao giờ đi một mình mà luôn luôn có các đồ đệ đi theo.
Thí dụ x. 1,29;3,14;5,18.
Có uy quyền: Việc Mác cô liên kết giáo huấn đầy
uy quyền và câu chuyện trừ quỉ đem lại cho trình thuật nầy một ý nghĩa đặc
biệt: giáo huấn được cô động trong lệnh truyền của Chúa Giê su: “Hãy xuất ra
khỏi người nầy!”. Qua đó, dường như Mác cô có ý cho thấy đó là lời đầy uy
quyền của Chúa Giê su.
Thật vậy, uy quyền không hạn hẹp trong uy tín của
lời giảng dạy hay một cách biểu hiện thuyết phục lòng người. Uy quyền nầy còn
vượt trên cách biểu hiện trong diễn từ các mối phúc trong Mát thêu, nơi Chúa
Giê su nói: “Anh em đã nghe người xưa dạy rằng. Còn Ta, Ta dạy rằng” (Mt
5,21.27.33.38.43). Nó cho thấy ý thức về một uy quyền cá nhân vượt xa uy tín
của các thầy kí lục và người xưa (Mt 7,28-39). Ở đây uy quyền đối với Mác cô
chủ yếu bao gồm trong một lời nói đầy hiệu năng thực hiện điều được nói đến.
Một điểm nữa cũng không kém phần quan trọng là sự
việc xảy ra trong một hội đường và Mác cô muốn đối lập uy quyền của Chúa Giê su
và uy quyền của các kí lục (1,22). Bản văn gợi ý cho thấy sự đối kháng giữa lề
luật vô hiệu và lời đầy hiệu quả của Đức Ki tô (1,44;2,10;3,15;6,7).
Thần ô uế: vào thời ấy, người ta thường gán bệnh
tật, đặc biệt các xáo trôn về tâm lí và những hình thức co giật khác nhau cho
hành động của Sa tan hoặc một quyền bính thiêng liêng nào đó. Thí dụ, x. Lc
13,11-16. Ở đây khó lòng mà xác định bản văn muốn nói một đến điều gì cụ thể.
Đấng Thánh của Thiên Chúa: sau khi được gọi bằng
những tên gọi như Messia (1,1) và Con Thiên Chúa (1,1.11), Chúa Giê su giờ nhận
thêm tước hiệu mới nhấn mạnh đến sự liên kết hoàn hảo với Thiên Chúa ba lần
thánh. Tước hiệu nầy trong Giáo hội tiên khỏi là một trong những công thức cổ
xưa được dùng để chỉ thần tính Chúa Giê su. Xem Lc 1,35; Cv 3,14; 4,27.30; Ga
6,69. Các thần dữ biết Chúa Giê su đích thực là ai và chỉ có chúng mới công bố
một cách công khai. Xem 3,11.
Giáo huấn mới mẻ: sự mới mẻ nầy không phát xuất
từ tính cách chưa bao giờ công bố, nhưng từ sự kiện đặt nền tảng trên một uy
quyền hết sức lạ lùng nơi một người. Xem 1,22; 2,18-22.
SỨ ĐIỆP
Bài
tin mừng chủ nhật hôm nay đưa chúng ta về đầu đời
sứ vụ công khai của Chúa Giê su. Ngài đến kêu gọi bốn
môn đệ đầu tiên nơi bờ hồ Tibêríat, rồi cùng với họ, Ngài
đến Ca phác na um để công bố tin mừng. Thành phố ấy được coi như là một nơi nhiều
tai tiếng, nên việc Ngài bắt đầu sứ vụ cứu thế từ nơi ấy cho thấy rằng Ngài đến
trần gian là để tìm và cứu vớt những người đã hư mất.
Cũng chính Ngài đến Ca phác naum của chúng ta ngày
nay. Chúng ta hiện đang sống trong một thế giới đau khổ vì nhiều thứ mất trật
tự. Hãy nghĩ đến tất cả những bất công càng lúc càng to lớn mà chúng ta đang
chứng kiến và lắm khi là đồng lõa. Tham nhũng, bạo lực, loại trừ đang hoành
hành khắp nơi càng lúc càng công khai. Khoảng cách giữa người giàu và nghèo
càng lúc càng tăng. Thế lực sự dữ vẫn thắng thế và luôn sẵn sàng vô nhân hóa xã
hội chúng ta.
Nhưng
chính đó là nơi mà Chúa Giê su gặp gỡ chúng ta.
Sứ điệp của Ngài không phải là một bài học luân lí. Lời Ngài dạy
không giống với lời của các kí lục và pha ri sêu. Họ huênh hoang đủ thứ để rồi
cuối cùng ru ngủ người nghe phải chịu đựng họ vì họ chỉ lặp lại những gì mà
chính họ đã học được.
Thế
rồi một ngày kia, người ta nghe một lời nói đầy uy lực lay động thức tỉnh
khiến họ ngạc nhiên. Họ thấy mình đứng trước một người nói năng không như những
người khác. Ngài nói những lời mà họ chưa bao giờ nghe; nhưng họ hiểu và họ
quan tâm đến điều Ngài nói. Ngài nói như một người biết rõ con người là ai và
cho thấy rõ vương quyền của Thiên Chúa là gì. Lời Ngài là lời mang đến tin mừng
giải thoát. Cái nhìn của Ngài chạm đến nơi sâu kín trong tâm hồn con người.
Ngài đọc được những khúc mắc trong tâm hồn. Ngài hiện diện trong mỗi người,
không phải để làm cho họ âu lo, nhưng để giúp họ an tâm, cứu chữa họ, giải
thoát họ khỏi tất cả những gì có thể tha hóa họ. Ngài đến để khơi gợi lên trong
mỗi người ước muốn hòa bình và chân lí.
Bài
tin mừng hôm nay không kể cho chúng ta nghe những gì Chúa
Giê su đã nói, nhưng nhấn mạnh sự kiện là Ngài nói một cách đầy uy quyền.
Không những lời ấy khiến mọi người phải ngạc nhiên nhưng nó còn giải thoát một
người bị ma quỉ ám. Do vậy, đó là một lời làm cho sống.
Người
ta kể rằng một nhà vua kia muốn làm một cuộc thử nghiệm để biết xem đâu là ngôn
ngữ cổ nhất mà con người xử dụng. Nhà vua truyền đem một đứa bé giam vào trong
một cái phòng kín, không thiếu một sự chăm sóc nào, nhưng cấm hẳn mọi âm thanh
và lời nói. Và chờ xem nó sẽ nói ngôn ngữ nào khi lớn khôn. Điều đã xảy ra là
đứa bé đã chết sau một vài tháng.
Câu
chuyện đó muốn nói với chúng ta rằng không ai trong chúng ta
có thể sống nếu không có lời yêu thương của cha mẹ ngay
từ lúc sinh ra và trong suốt những ngày tháng sau đó. Đó là cái mà
chúng ta gọi là một lời tạo dựng hoặc một lời tái tạo. Trong cuộc sống vợ chồng
cũng giống như thế. Một tình yêu không lời nói, đó là điều không thể có. Lời
tình yêu làm cho sống, đem lại cho đời một ý nghĩa. Lời sáng tạo sư sống.
Đó
là điều đã xảy ra cho người bị quỉ ám mà tin mừng hôm nay nói với chúng ta. Môt
lời quyền năng của Đức Ki tô là đủ tái tạo người ấy trong sự tự do của con
người. Lời xua đuổi ma quỉ ra khỏi người bị quỉ ám. Tin mừng của Thiên Chúa
được Chúa Giê su công bố chính là sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta. Sự
hiện diện ấy hãy còn kín nhiệm nhưng tiếp tục dạy dỗ và chữa lành khỏi mọi nguy
khốn. Chúa Giê su đã không gặp người bị quỉ ám trên đường hay nơi công trường,
nhưng trong hội đường, ở giữa cộng đoàn họp nhau cầu nguyện. Ngay trong chính
các cộng đoàn của chúng ta, có thể vẫn có những đồng lỏa với sự xấu. Cả chúng
ta cũng có thể là nô lệ cho các đam mê của mình, tiền bạc và nhiều điều khác
nữa. Thế mà chỉ cần một lời nói là có thể giải thoát chúng ta, nhưng với điều
kiện là không đồng lỏa với sự dữ trong chúng ta. Rất thường chúng ta để mình bị
lôi cuốn theo thế giới tuyên truyền bằng những lời vô bổ, và ngăn cản chúng ta
tiếp nhận Lời giải thoát trong thinh lặng.
Vậy
chúng ta hãy để cho Lời ấy thấm nhập và tra vấn chúng ta, để
biến chúng ta thành những con người mới, những con người tự do. Như thế lời của
chúng ta cũng sẽ có thể là lời giải thoát. Lời chúng ta nói, cách hành động của
chúng ta sẽ mang lại niềm tin; nó sẽ giúp chúng ta muốn đứng lên, và hành động
như những tiên tri cho con người thời nay.
Qua
bí tích Thánh Thể, chính Chúa Giê su đến gặp chúng ta đang qui
tụ trong danh của Ngài. Trước mặt Ngài, chúng ta là một dân tội lỗi,
nhưng được Ngài giải thoát và cứu chữa, để làm nẩy sinh một dân tộc mới,
một thế giới mới.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Ngày xưa, đám đông nghe giáo
huấn và thấy và phép lạ Chúa Giê su đã sửng sốt
và tự hỏi: “Ông nầy là?”. Ngày hôm nay, chúng ta có
thể trả lời cho câu hỏi đó không?
THƯA: Chúa Giê su là một người đã vượt
ra ngoài mọi mẫu mực, không giống với bất cứ ai khác. Diện mạo của Ngài không
thể lẫn lộn với một nhân vật lớn nào trong suốt dòng lịch sử. Nơi Chúa Giê su
chúng ta tìm thấy con người và sứ điệp là một: Ngài chính là sứ điệp Ngài loan
báo.
2. HỎI: Vậy thì ta có
thể có một bức chân dung đích thực về Chúa Giê su không?
THƯA: Không, bởi vì các tông đồ và môn
đệ lúc đầu tiên không nói về việc làm và giáo huấn của Chúa Giê su mà chỉ quan
tâm đến việc loan báo cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đàng khác vào thời đó,
lề luật nghiêm cấm tạc tượng, vẽ hình của bất cứ một người nào, vì đó là tội
thờ bụt thần.
3. HỎI: Các sách tin mừng cũng không để lại
cho chúng ta một dấu chỉ nào hết về vấn đề nầy sao?
THƯA: Có một vài chỉ dẫn nhỏ về chiều
cao của Ngài. Một vài nhà nghiên cứu cho rằng Chúa Giê su có vóc dáng to cao
cường tráng, nhờ đó mà Ngài dễ dàng xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ.
Ngoài ra, trong câu truyện về Giu đa hôn Chúa Giê su, sách Tin mừng dùng một
động từ trong tiếng hi lạp nói về một hành động được thực hiện từ dưới lên cao;
trong trường hợp đó, phải dịch cho đúng là: « Anh ta đã nhón chân để hôn
Ngài ».
4. HỎI: Căn cứ theo Cựu ước, chúng
ta có thể hình dung diện mạo của đấng Messia không ?
THƯA: Theo một nghĩa nào đó, có thể.
Tuy nhiên, chúng ta phải để lưu ý rằng đó là những hình ảnh thiêng liêng về
đấng Messia và về sứ mạng của Ngài. Thí dụ như Isaia mô tả Ngài như là người
đau khổ, có gương mặt rách nát, trông rất khủng khiếp, vì bị tra tấn và hành hạ
(X. Is 52, 14-53,2-3). Trái lại tác giả Thánh vịnh 44 mô tả Ngài như là người
xinh đẹp nhất trong nhân loại, ăn nói dịu dàng và duyên đáng, được Thiên Chúa
chúc phúc, tâm hồn cao cả, công chính hiền từ và là thầy dạy chân lí.
5. HỎI: Diện mạo bên ngoài của Ngài cũng thu
hút người khác chứ?
THƯA: Không chỉ như thế, Chúa Giê su
còn thu hút bởi cử chỉ và thái độ rất quân bình của Ngài. Ai đã thấy Ngài bẻ
bánh sẽ không bao giờ quên được những hành động long trọng đó. Đặc biệt Ngài
thu hút bởi cung cách đặc biệt trong việc chăm sóc bệnh nhân, cũng như thái độ
nghiêm trang nhưng không bao giờ khe khắt đến độ giận dữ.
6. HỎI: Nhưng điều gì nơi Chúa Giê
su đã gây ấn tượng mạnh nhất cho các tác giả tin mừng?
THƯA: Một cách trực tiếp hay gián
tiếp, họ bị ấn tượng mạnh nhất bởi ánh mắt và giọng nói của Chúa Giê su. Điều
ấy được chứng minh trong các tin mừng bởi sự kiện là tất cả những chi tiết liên
quan đến Chúa Giê su đều được mô tả một cách đặc biệt trân trọng: Ngài “đầy
lòng thương xót, đầy cảm thông, đầy yêu thương, đậm tình thân hữu”.
7. HỎI: Các trang Kinh thánh đó dường như đi
ngược lại diện mạo đích thực của Đức Ki tô ?
THƯA: Không, nếu chúng được giải thích
theo thời điểm nhất định nào đó trong cuộc đời Chúa Giê su mà chúng qui chiếu
đến. Thí dụ, trong Is 52,14tt, người ta ám chỉ đến cuộc khổ nạn của Đức Ki tô.
8 HỎI: Các sách Phúc âm nói với chúng ta rằng
Chúa Giê su gây ấn tượng mạnh nơi các người đồng thời?
THƯA: Chắc chắn là như thế. Ngài lôi
kéo sự chú ý của những người bệnh tật và tội nhân. Các tông đồ cảm thấy bị thu
hút bởi một sức mạnh phát xuất từ con người của Ngài. Các trẻ em cảm thấy vui
sướng khi ở cạnh Ngài. Thậm chí chính Phi la tô cũng cảm thấy bị ấn tượng bởi
diện mạo đặc biệt của Chúa Giê su. Nếu đọc tin mừng trong nguyên ngữ hi lạp,
độc giả sẽ thấy toát ra từ Chúa Giê su một sức thu hút kì lạ.
9. HỎI: Tại sao Phi la tô ngạc nhiên khi ông
Giu se Ariamathia xin xác Chúa Giê su?
THƯA: Sự ngạc nhiên của Phi la tô là
chi tiết quan trọng vì nó cho chúng ta biết rằng Tổng trấn La mã đã xét xử và
lên án một người Ga li lê khỏe mạnh và cường tráng. Nếu Chúa Giê su là một
người ốm yếu mảnh dẽ, thì Phi la tô đã không ngạc nhiên trước cái chết
quá nhanh của Ngài.
10. HỎI: Điều mà người ta xác tín
nhờ các Tin mừng có thể được củng cố bằng Tấm khăn liệm
Thánh Tôrinô không?
THƯA: Có,
nếu người ta tin vào thánh tích quan trọng ấy. Thật vậy, nó cho chúng ta biết
người được liệm trong khăn có chiều cao to lớn (1m,83) trong khi chiều cao
trung bình của người thời đó là 1m,65.