CHỦ NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
SỐNG giữa
thế
giới
đầy
bạo
lực,
chúng ta luôn khắc
khoải chờ
mong: “Bao giờ
thì mới
hình thành Nhân lọai
mới
trong đó con người
thực
sự
được
hạnh
phúc?”. Ước
muốn
hình thành Nhân lọai
mới
là một
lời
mời
gọi
đi vào trong sự
Khiêm Nhu của
Thiên Chúa. Chỉ
có Người
mới
là nguồn
mạch
tạo
nên một
sự
Gặp
gỡ
đích thực. Đối
với
những
ai biết
mở
rộng
tâm hồn
đón nhận
“bí mật”
đó, sự
sống
đang hiện
diện,
ngay trong thế
giới
đầy
hận
thù và chết
chóc nầy.
Phụng
vụ
hôm nay mời
gọi
chúng ta hãy mở
rộng
tâm hồn
đón chào viễn
tượng
cuộc
sống
ấy.
Sách Nơ khê mia 8,1-4a.5-6.8-10
Trong suốt cuộc
lưu
đày, Dân Do thái đã suy niệm về những
ảo
tưởng
đã đưa
họ
đến
chỗ
thất
bại.
Trở
về
cố
hương,
họ
quyết
định
từ
nay sẽ
đặt
đời
sống
của
mình dưới
dấu
chỉ
của
Lề
luật
Thiên Chúa. Thầy
Kí lục
Esdras đã qui tập
các truyền
thống
tổ
tiên, long trọng
công bố
Lề
Luật
ấy.
Mọi
sự
đang bắt
đầu.
Thánh Vinh
18
Toàn thể Tạo
Thành nói về
Thiên Chúa. Nó giúp cho ta nghĩ đến một
Luật
khác không kém phần
hoàn hảo:
đó là Luật
ghi chép trong Thánh Kinh mà người Do thái gọi là Tô ra. Tác giả
Thánh vịnh
chúc cho mọi
người
hiểu
biết
và vâng theo.
Thư 1 Cô rin tô 12,12-30
Vừa trở
về
với
Tin Mừng,
cộng
đoàn tín hữu
Cô rin tô lại
sa vào tật
xấu
là chia rẽ
nhau: phổ
biến
nhất
là sự
tách biệt
giữa
người
giàu và người
nghèo.Thánh Phao lô cực
lực
chống
lại
những
lệch
hướng
ấy
và chỉ
cho biết
một
Cộng
đòan Ki tô hữu
có Đức
Ki tô ngự
trị
phải
như
thế
nào: đó là một
Thân thể
hòa hợp
nơi
mà mỗi
người
như
chi thể
có vị
trí riêng nhắm
đến
ích chung cho tất
cả.
Tin mừng Lc 1,1-4; 4,14-21
NGỮ CẢNH
Bài đọc Tin Mừng
trong Phụng vụ
được
ghép bởi
hai đoạn
khác nhau, có lẽ
vì muốn
ráp nối
hai đoạn
văn
mở
đầu:
phần
nhập
đề
sách Tin Mừng
Luca; và phần
nói đến
việc
Chúa Giê su bắt
đầu
giảng
dạy
tại
Nagiarét.
Đoạn thứ
nhất
được
soạn
theo kiểu
các lời
tựa
các tác phẩm.
Sau khi cho biết
tình hình tổng
quát về
các bản
trình thuật
các biến
cố
liên quan đến
Chúa Giê su, Thánh Luca nói đến mục tiêu, cách thức
trong việc
soạn
quyển
sách Tin mừng
nầy.
Và sau cùng là lời
đề
tặng.
Đoạn thứ
hai kể
lại
việc
Chúa Giê su trở
về
Nagiarét rao giảng
Tin Mừng.
Cả
ba sách Tin Mừng
nhất
lãm đều
đồng
qui ở
trình thuật
kể
lại
việc
Chúa Giê su bắt
đầu
rao giảng
Tin Mừng
ở
Galilê sau khi được
thanh tẩy
và bị
ma quỉ
cám dỗ
(Mc 1,14; Mt 4,12; Lc 4,14).
TÌM HIỂU
Nhiều người: dịch
theo từ
Hi lạp,
nhưng
phải
hiểu
là một
vài.
Đã phục
vụ
Lời: người
phục
vụ
Lời
theo nghĩa
tôi tớ. Các
chứng nhân nguồn
truyền
thống
không phải
là những
người
sở
hữu
Lời,
nhưng
chỉ
là các tôi tớ
khiêm nhường
phục
vụ
Lời.
Cẩn thận
tra cứu: thật
là sai lầm
khi coi trình thuật
tin mừng
Luca mang
tính chất lịch sử
theo cách hiểu
ngày nay. Thật
ra, có nhiều
đoạn
Tin mừng
trong Mc hay Mt được
nhìn nhận
là cổ
xưa
và gần
gủi
với
đời
sống
Chúa Giê su hơn
trong tin mừng
Luca. Thời
đó, lời
cắt
nghĩa
các biến
cố
thì có tầm
quan trọng
hơn
là chính biến cố.
Do đó, vấn
đề
không phải
là kể
lại
các biến
cố
quá khứ
như
đã xảy
ra, mà là công bố
niềm
tin, đặt
độc
giả
trước
Đức
Ki tô phục
sinh, cũng
là chính Đức
Ki tô lịch
sử:
các sự
kiện
liên quan đến
Ngài do đó được
qui chiếu
dưới
ánh sáng Phục
sinh. Anh hưởng hổ
tương
của
Đức
Ki tô vinh quang và Chúa Giê su Na gia rét đem lại cho các sách tin
mừng
một
tính cách đặc
biệt:
thể
loại
« tin mừng ».
Thật là vững
chắc: đây không phải
là bộ
sách Hộ
Giáo hay phê bình lịch
sử,
hay một
thứ
lịch
sử
cứu
độ
không liên quan
gì đến lịch sử
thế
giới.
Nhưng
đây là một
tác phẩm
văn
chương
và lịch
sử.
Quyền năng
Thần
Khí: việc
qui chiếu
đến
Thánh Thần
vào đầu
trình thuật
nầy
muốn
nhắc
cho độc
giả
nhớ
lại
rằng
sứ
vụ
Chúa Giê su đặt
nền
tảng
trên biến
cố
phép Rửa
(3,22) và kinh nghiệm
về
cuộc
cám dỗ
(4,1-2).
Giảng dạy: ngoài việc
được
dùng làm nơi
cầu
nguyện
trong ngày sa bát, các hội
đường
còn dùng làm phòng hội
hợp
cho các ráp bi và môn đệ.
Nơi
Chúa Giê su dùng để
giảng
dạy
khác biệt
với
nơi
rao giảng
của
vị
Tiền
Hô: hội
đường
đối lập
với
hoang địa
và bờ
sông Gio Đan
(3,2-3). Chúa Giê su thường
đến
dự
các buổi
nhóm họp
của
dân Ngài.
Tôn vinh: từ nầy
Tân Ước
luôn dành riêng cho Thiên Chúa, trừ trường
hợp
ở
đây. Vinh quang mà Chúa Giê su nhận được
báo trước
vinh quang Ngài sẽ
tiếp
nhận
ngang qua thập
giá (24,26).
Hội đường: Luca thích đặt
các biến
cố
quan trọng
cuộc
đời
Chúa Giê su trong một
khung cảnh
cầu
nguyện.
Chúa Giê su hội
họp
với
các đồng
bào của
Ngài để
cầu
nguyện.
Và chính trong khi cầu
nguyện
vào ngày sa bát mà Ngài quyết định khai mạc
sứ
vụ
của
mình.
Đọc: Chúa Giê su đọc
Thánh Kinh. Đó
lại
là một
đặc
điểm
nữa
về
cuộc
đời
Chúa Giê su trong tin mừng
Thánh Luca. Trong những
thời
khắc
quan trọng,
Chúa Giê su muốn
so sánh với
những
gì mà ông Mô sê và các tiên tri đã nói (như trong trường
hợp
cám dỗ
4,1-13, biến
hình 9,30, và sau khi sống
lại
với
các môn đệ
24,27.44-46).
Trao cho Người cuốn
sách ngôn sứ:
theo thói quen trong các hội đường,
sau khi đọc
một
đoạn
sách lề
luật,
người
ta đọc
thêm một
đoạn
sách tiên tri, trong trường hợp
ở
đây, Chúa Giê su đọc
đoạn
sách tiên tri Isaia.
Thần khí: các Vua, Ngôn Sứ,
Tiên tri được
thánh hiến
bằng
nghi thức
xức
dầu,
còn Chúa Giê su thì tuyên bố rằng Thần
khí Chúa đã ghi một
ấn
dấu
trên ngài. Không chỉ
trên Ngài mà còn để
hoàn thành công trình
của Thiên Chúa: ban cho người nghèo niềm
vui, ban cho kẻ
mù được
thấy,
kẻ
điếc
được
nghe, người
câm nói được...Với
sự
xâm nhập
của
Thần
Khí nầy,
thời
đại
thiên sai đã mở
ra.
Nhìn Người: không còn phải
là cuốn
sách nói nữa,
mà chính Chúa Giê su. Ngài là Lời Thiên Chúa, từ nay cần
phải
khám phá, lắng
nghe, nhìn ngắm
và đọc
Ngài.
Hôm nay: các tiên tri chỉ
là bản
sơ
thảo
Lời
Chúa, và Thần
khí trợ
giúp họ
để
họ
loan báo Lời
Thiên Chúa là chính Đức
Ki tô. Chính Chúa Giê su đã nói ngang qua lời sấm
các tiên tri.
Nhưng hôm nay thì trung gian ấy không còn cần
thiết
nữa.
Quả
thật
chính Thiên Chúa đã làm cho lời Tiên tri được ứng
nghiệm.
Ưng nghiệm
Lời
Kinh Thánh quí vị
vừa
nghe: sự
ứng
nghiệm
đây không phải
là một
cảnh
tượng
mà người
ta có thể
thấy,
nhưng
là một
tin mừng
có thể
nghe được,
để
có thể
cùng với
đức
tin « làm chứng »
cho sứ
điệp
(4,22). Như
thế,
ngang qua điều
đã được
nghe và được
đọc,
cần
phải
nhìn nhận
rằng
sự
hoàn tất
đã được
thực
hiện
trong Chúa Giê su.
SỨ ĐIỆP
Phần đầu của bài tin mừng
Chủ nhật hôm nay ghi lại lời tựa tin mừng Thánh Luca. Ngay từ đầu, tác giả xác
định mục đích của những câu truyện được kể lại trong Tin mừng là nhằm củng cố
đức tin cho ông Tê ô phi lô: “Mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài
đã học hỏi thật là vững chắc”. Lời mở đầu ấy cũng gửi đến chúng ta hôm nay,
được mời gọi chăm chú lắng nghe, suy niệm và thực hành, để rồi đến lượt mình,
chúng ta cũng ra đi chia sẻ tin mừng mà chúng ta đã nhận được cho những người
khác. Đó là phương thức phát triển Hội Thánh.
Kế đến, bài tin mừng trình
bày cho chúng ta bước khởi đầu của sứ vụ Chúa Giê su. Ít lâu sau phép rửa, Ngài
bắt đầu giảng dạy ở Ga li lê. Tất cả mọi người đều nói về Ngài với lòng đầy
ngưỡng mộ và kính phục. Hôm ấy nhằm ngày sa bát, trong chuyến trở về Na gia
rét, ngôi làng quê nơi ngài đã lớn lên, theo thói quen, Ngài vào hội đường tham
dự buổi cầu nguyện cùng với những người đồng hương. Ngài đứng lên đọc sách
Thánh. Bài đọc hôm ấy nhằm đọan sách Isaia chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên
tôi, vì Chúa đã xức dầu thánh hiến tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người
nghèo, loan báo cho người tù đày được tự do, và cho người mù được nhìn thấy ánh
sáng, giải thoát cho những kẻ bị áp bức, loan báo một năm hồng ân của Chúa”.
Sau khi cuộn sách lại, Ngài lớn tiếng công bố: “Hôm nay đã ừng nghiệm lời Kinh
Thánh tai quí vị vừa nghe”.
Tin vui đêm giáng sinh
loan báo cho các mục đồng giờ đây được cụ thể hóa: sau ba mưoi năm ẩn dật chuẩn
bị, Chúa Giê su từ nay chính thức khởi sự công cuộc giải phóng cứu độ của Ngài.
Tin mừng đó cũng được thực hiện trong chính hôm nay: Thiên Chúa luôn yêu thương
và quan tâm đến những người bé nhỏ, những người nghèo, những kẻ bị tù đày,
những bệnh nhân và những kẻ tội lỗi. Chính vì thế mà chúng ta không run sợ khi
đứng trước nhan Người, để nhận ra mình thấp hèn, nghèo khổ, đui mù và tội lỗi.
Chính trong tư thế đó chúng ta có thể tiếp nhận sự giải phóng mà Chúa Giê su Ki
tô mang lại và trở nên những sứ giả cho thế giới hôm nay.
Hai ngàn năm sau, sự dữ,
những bất công, mọi đau khổ vẫn còn đó. Hàng ngàn người, đàn ông, đàn bà và con
trẻ bị chết thảm trong những cuộc động đất, lũ lụt, sống thần kinh hoàng xảy khắp
nơi trên thế giới. Những người đáng thương khác đang phải chiến đấu chống lại
những chứng bệnh nan y. Và dĩ nhiên, chúng ta cũng không quên những nạn nhân
của thù hằn và bạo lực của con người. Bên cạnh chúng ta, vẫn còn nhiều người
đang đối đầu với những khó khăn chồng chất khiến họ không có nỗi một cuộc sống
đúng phẩm giá con người. Khi nhìn thấy nhiều tai họa liên tục ập xuống, chúng
ta dễ bị chao đảo, thất vọng và tự hỏi: Đâu rồi cái “ngày
hôm nay” của Tin mừng mà Chúa Giê su công bố?
Để trả lời cho câu hỏi ấy,
chỉ cần nhìn vào muôn vàn chứng từ sống chung quanh chúng ta và trên thế giới:
Tin mừng ấy chúng ta đang thấy thể hiện trong trong làn sóng bao la những người
ki tô và không ki tô đang quảng đại tiếp cứu dân trốn chạy bạo lực và thiên tai.
Và tin vui cũng đến khi
chúng ta chứng kiến nhiều bệnh nhân can đảm chiến đấu với bệnh tật trên giường,
khi chúng ta quảng đại chia sẻ với những người đang đói khát. Hội Thánh đang
trở thành nhà vô địch trong việc cứu trợ những người nghèo. Trong suốt các thế
kỉ qua, chính Hội Thánh đã mở những bệnh viện, nhà cô nhi, trại phong cùi. Và
ngày hôm nay, Hội Thánh vẫn còn hiện diện ngang qua nhiều cơ quan cứu trợ công
giáo, các nhà giáo dục, và những người công tác trong nhiều lãnh vực khác.
Chính vì thế chúng ta có
bổn phận phải làm sao để cho Lời Chúa được thể hiện ngay chính ngày hôm nay
trong những môi trường khác nhau của cuộc sống. Điều ấy chỉ có thể thành hiện
thực nếu chúng ta để cho đời sống mình thấm nhuần lời Chúa để trở nên những tôi
tớ trung thành. Như những người trong hội đường, chúng ta hướng mắt đăm đăm
nhìn vào Chúa Giê su để tiếp nhận sứ điệp giải phóng của Ngài. Để rồi, cũng như
Ngài và cùng với Ngài, chúng ta được sai đi gặp gỡ mọi người ngay nơi họ đang
sống. Tin mừng ấy phải được loan báo trong các nhà thờ cũng như trong những môi
trường khác nhau của cuộc sống, nơi làm việc cũng như nơi giải trí. Chính vì sứ
vụ ấy mà Thánh Thần của Đức Ki tô đã được ban cho chúng ta. Hôm nay cũng như
ngày xưa, Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đến với những người nghèo khổ, những kẻ
bị lọai trừ, những con người bất hạnh đã mất hoặc quên đi nhân phẩm của mình.
“Lạy Chúa, xin hãy nhìn
dân tộc của Chúa đang qui tụ, dân tộc đang lắng nghe Chúa. Xin hãy mở tai chúng
con, tâm hồn chúng con lắng nghe Lời có thể biến đổi chúng con. Và xin biến đổi
chúng con thành những sứ giả của tin mừng nầy trên khắp thế giới”.
ĐÀO SÂU
TIN MỪNG CỨU
ĐỘ
ĐƯỢC
LOAN BÁO
Nkm 8,1- 4a, 5-6, 8-10 Dân Thiên Chúa tái khám phá
Lời Chúa
Tv 19,7, 8, 9, 14 Niềm
vui của
Chúa là thành lũy
của
chúng ta
1 Cr 12,12-30 hoặc 12,12-14,
27 Nhiều
chi thể
trong thân thể
hiệp
nhất
của
Đức
Ki tô
Lc 1,1-4; 4,14-21 Hôm nay Lời
đã được
thực
hiện
1. HỎI: Ba bài đọc
liên kết với nhau theo chủ
đề nào?
THƯA:
TIN MỪNG CỨU
ĐỘ
ĐƯỢC
LOAN BÁO.Chuyện
Ết-ra
đứng
đọc
luật
pháp Mô-sê để
triệu
tập
concái Ít-ra-ênnhớ
đến
Giao Ước
(Bđ 1) là hình ảnh
báo trước
việc
Chúa Kitô sẽ
mangTin mừng cứu
độ
cho muôn dân,
đặc biệt
những
người
nghèo (BTM).
Và như thế sinh hoạt
của
Hội
Thánh hiện
nay cũng
là hiệu
quả
của
việc
công bố
Tin mừng này (Bđ2).
2. HỎI: Sách Nơ-khê-mi-a
là sách gì?
THƯA:
Sách Nơ-khê-mi-a
thuộc
loại
sách sử,
gợi
lại
cuộc
tái định
cư
tại
Đất
thánh khoảng
năm
538 sau lưu
đày Ba-by-lon của
Dân Chúa. Sách nhấn
mạnh
đến
ba công tác chính yếu
phải
hoàn thành là tái thiết đền
thờ
và tái lập
phụng
tự,
tái thiết
tường
thành Giê-ru-sa-lem, và tái lập sự duy nhất
Dân Chúa. Sự
cải
cách đặc
biệt
nhắm
đến
việc
tái lập
phụng
tự
để
trở
thành nơi
hợp
nhất
dân Chúa.
3. HỎI: Hoàn cảnh
lịch
sử
bài đọc một như
thế nào?
THƯA:
Bài đọc
một đưa
ta về
Giê-ru-sa-lem vào khoảng
năm
450 trước
Công Nguyên. Cuộc
lưu
đày ở
Ba-by-lon đã chấm
dứt,
Đền
thờ
Giê-ru-sa-lem cuối
cùng đã được
tái thiết
xong, cuộc
sống
dần
ổn
định.
Tất
cả
tai ương
khổ
nhục
đều
đã đi vào quá khứ,
nhưng
hậu
quả
vẫn
còn kéo dài.
Dường như
dân đã mất
niềm
hi vọng
vốn
là linh hồn
nuôi sống
dân Chúa qua nhiều
cuộc
thăng
trầm
của
lịch
sử.
4. HỎI: Bài đọc
một
(Nkm 8,1- 4a, 5-6, 8-10) có nội dung như
thế nào?
THƯA:
Sau nhiều
năm
lưu
đày, lần
đầu
tiên toàn thể
dân Chúa đã được
qui tụ
tại
quảng
trường
để
lắng
nghe Kinh sư
Ết-ra,
tổng
đốc
Nơ-khê-mi-a
và các thầy
Lê-vi giải
thích lời
Thiên Chúa. Khi
lắng
nghe lời Chúa phán, họ đã ăn
năn
khóc lóc và
phủ phục
thờ
lạy
Người. Nhưng
Ết-ra
đã mời
gọi
vui lên hướng
về
tương
lai tươi
sáng mà Thiên
Chúa sẽ dành cho họ.
5. HỎI: Điều
gì đã cứu dân Ít-ra-ên trong cơn
bĩ
cực?
THƯA:
Thời
gian thử
thách thật
khủng
khiếp,
nhưng
lại
rất
phong phú. Dân
Ít-ra-ên đã giữ được đức
tin toàn vẹn
trong cuộc
lưu
đày giữa
mọi
nguy hiểm
thờ
bụt
thần,
nhưng
điều
quan trọng
hơn
là họ
vẫn
còn là một
dân tộc
và lòng nhiệt
thành họ
đã lớn
mạnh.
Được
như
vậy
là nhờ
vào các tư
tế
và tiên tri đã miệt
mài trong việc
mục
vụ,
nhất
là không ngừng
giúp dân đọc
lại
và suy niệm
Kinh Thánh.
6. HỎI: Những
nhân vật nào đã góp công phục hồi
dân Ít-ra-ên sau cuộc Lưu
đầy?
THƯA:
Đó
là các ông Ết-ra
và Nơ-khê-mi-a.
Họ
cố
gắng
tìm mọi
cách để
vực
dậy
tình thế,
nhất
là phục
hồi
đời
sống
thiêng liêng cho dân. Các yếu tố của
Giao Ước
vẫn
còn,đất
hứa
đã có,thành
thánh Giê-ru-sa-lemsẽ được tái thiết,đền
thờ
đã được
xây dựng
lại, còn Lời
chúa sẽ
được
công bố
trong buổi
cử
hành Lơi
Chúa vĩ
đại
ở
ngoài trời.
7. HỎI: Điều
khó khăn nhất là gì?
THƯA:
Điều
khó khăn
nhất
là tái hiệp
nhất cộng
đoàn đã bị
phân tán giữa
những
người
trở
về
từ
lưu
đày và những
người
còn ở
lại, đồng
thời
phải đối
phó với
những
kẻ
chiếm
đóng. Dựng
lại
các tường
thành còn dễ
hơn
là hiệp
nhất
cộng
đoàn. Đó
sẽ
là công việc
chờ
đợi Ét-ra và Nơ-khê-mi-a.
8. HỎI: Để
hàn gắn lại cộng
đồng
bị
phân tán, Ết-ra và Nơ
khê mi a đã làm gì?
THƯA:
Để
hàn gắn
lại
cộng
đồng
đã bị
phân tán, Ét-ra và Nơ-khê-mi-a
đã không khuyến
dụ
dạy
dỗ
dân mà đề
nghị
tổ
chức
một
cuộc
cử
hành Lời
Thiên Chúa. Chính Lời
Chúa và Lề
luật
sẽ
là mối
dây liên kết
thúc đẩy
dân canh tân Giao Ước
với
Thiên Chúa.
9. HỎI: Phụng
vụ mô tả trong bài đọc một
là phụng vụ gì?
THƯA:
Đó
làPhụng
vụ
Lời
Chúa kéo dài từ
sáng đến
trưa,
gồm
việc
đọc
sách Luật,
dịch
và giải
thích. Toàn dân đứnglắng
nghe và trả
lời
bằng
cách tung hô Amen. Cuộc
cử
hành kết
thúc bằng
việc
phủ
phục
sát đất
tôn thờ.
10. HỎI: Bài đọc
2 (1 Cr 12, 12-30) có nội dung như
thế nào?
THƯA: Thánh Phao lô dạy tất cả ở trong
Đức Ki tô như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Các chi thể tuy
khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình. Do đó các chi thể phải
bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu là Đức Ki
tô.
11. HỎI: Ngữ
cảnh
bài Tin mừng (Lc 1, 1-4; 4, 14-21) như thế
nào?
THƯA:
Bài Tin mừng gọp
lại
hai bản
văn
‘mở
đầu’:
mở
đầu
Tin mừng theo Lc (1,1-4) và khởi
đầu
việc
rao giảng
của
Đức
Giêsu tại
Na-gia-rét
(4,14tt). Có ba phần: 1) Mở đầu
Tin mừng (1,1-4);2); 2. Bắt
đầu
sứ
vụ
(4,14-15); 3) Thăm
viếng
Na-gia-rét (4,16-21).
12. HỎI: Thánh Luca viết
lời
tựa
Tin mừng(1-4) có mục đích gì?
THƯA:
Là một
sử
gia tài năng, thánh Luca theo cách viết
của
các tác giả
đương
thời.
Ngài dành những
lời
nói đầu
tiên để
đề
ra mục
tiêu, phương
pháp cũng
như
đối
tượng
của
tác phẩm.
Mục
tiêu là viết
một
trình thuật
về
những
gì Chúa Giê su đã nói và đã làm. Phương pháp là nghiên cứu
cẩn
thận
các nguồn
thông tin để
bố
cục
một
tác phẩm
hoàn hảo.
Đối
tượng
mà ông nhắm tới
là đề
tặng
cho ông Thê-ô-phi-lô để
củng
cố
đức
tin cho ông.
13. HỎI: Lời
tựa
ấy có giá trị
không?
THƯA:
Lời
xác nhận
của
Thánh Luca thật
quý giá đối
với
các nhà sử
học.
Nhờ
đó mà người
ta biết
ngay từ
lúc đầu
đã có nhiều
người
viết
những
bản
tường
thuật
ghi lại
những
gì Chúa Giê su đã nói và đã làm dựa trên lời
các chứng
nhân thuật
lại.
Chính từ
các tài liệu
ấy,
cùng với
các các nguồn
thông tin được
trung thành truyền
lại
trong Hội
Thánh, các tác giả
sách Phúc âm đã soạn
tác phẩm
của
mình.
14. HỎI: Còn đối
với
đức
tin?
THƯA:
Lời
mở
đầu
ấy
cũng
vô cùng quan trọng
đối
với
đức
tin vào Chúa Giê su.
Những gì chúng ta tin không dựa vào những
chuyện
hoang đường
hay tưởng
tượng
nhưng
đặt
trên các sự
kiện
lịch
sử
được
đảm
bảo
bởi
các nhân chứng
thà chết
chứ
không phủ
nhận
những
sự
kiện
ấy.
15. HỎI: Phần
mở
đầu
sứ
vụ
(4,14-15) có gì đặc biệt?
THƯA:
Phần
mở
đầu
sứ
vụ
(4,14-15) nêu bật
những
đặc
điểm
của
Tin mừng Lu ca: một
là vai trò đặc
biệt
của
thần
khí Thiên Chúa trong cuộc
đời
Chúa Giê su; hai là đề
cao hoạt
động
‘giảng
dạy’
của
Chúa Giê su; ba là nhấn
mạnh
tính phổ
quát của
ơn
cứu
độ.
16. HỎI: Mê-si-a là đấng
nào?
THƯA:
Mê-si-a (tên
gọi Híp
pri) hay Đấng Ki tô (tên gọi Hi lạp) có nghĩa
là được
xức
dầu.
Đấng
Mê-si-a lúc đầu
đồng
nghĩa
với
Vua vì được
xức
dầu
ngày được
phong Vương.
Việc
xức
dầu
là dấu
chỉ
cho thấy
chính Thiên Chúa linh hứng
thường
xuyên cho Vua để
có thể
hoàn thành sứ
mạng
cứu
thoát dân Ngài.
17. HỎI: Sự
chờ
đợi
Đấng
Mê-si-a đã chuyển
biến
như
thế
nào ở
Ít-ra-ên?
THƯA: Dần
dần
tên gọi
‘Mê-si-a = Đấng
Thiên sai’có hai nghĩa:
một
là người
có sứ
mạng
lãnh đạo
giải
thoát dân Thiên Chúa. Hai là người được Thiên Chúa linh hứng,
vì Thánh Thần
ngự
trên Ngài. Hai ý nghĩa
ấy
được
áp dụng
trước
tiên cho Vua, rồi
đến
các tư
tế,
và tiên tri. Về
sau, người
ta gọi
‘Mê-si-a = Đấng
thiên sai’ là người
được
Thánh thần
ngự
xuống,
dù không được
xức
dầu.
Đó
là trường
hợp
các tiên tri. Vào thời
Chúa Giê su, người
ta chờ
đợi
một
Đấng
Mê-si-a vừa
là Vua vừa
là tiên tri, được
Thần
Khí Thiên Chúa ngự
xuống
tràn trề.
18. HỎI: Chúa Giê su có phải
là đấng Mê-si-a không?
THƯA:
Chúa Giê su
không ngừng khiến cho những
người
đương
thời
phải
ngạc
nhiên: Ngài đúng là Đấng
Mê-si-a người
ta chờ
mong, nhưng
cung cách khác xa với
những
gì mà người
trông đợi!
Điều
đó đã khiến
Lu ca phải
cẩn
thận
cảnh
giác độc
giả
ngay từ
đầu
sách bằng
cách nhấn
mạnh
rằng
Chúa Giê su được
Thánh Thần
hỗ
trợ,
đó là dấu
chỉ
đặc
biệt
của
Đấng
Mê-si-a
19. HỎI: Từ
‘Hôm nay’ có nghĩa gì?
THƯA:
‘Hôm nay’ là
từ đặc
biệt
của
Lu ca thường
dùng để
nói đến
ơn
cứu
độ
được
thực
hiện
trong suốt
cuộc
đời
Chúa Giê su: ngày giáng sinh (2,11), chịu thanh tẩy
(3,22), chữa
lành người
bất
toại
(5,26), các phép lạ
và đi lên thành Giê-ru-sa-lem (13,32-33), tha thứ cho ông Gia kêu
(19,5-9), lời
hứa
cho người
trộm
lành (23,43). Qua
đó, Luca đã nhìn thấy nơi sứ
mạng
của
Chúa Giê su một
thời
kì đặc
biệt
của
lịch
sử,
một
thời
đại
ân sủng
giữa
thời
gian chuẩn
bị
trong Cựu
Ước
và thời
Giáo hội
bành trướng.
20. HỎI: Chúa Giê su tự
nhận mình là Đấng Mê-si-a?
THƯA:
Chúa Giê su
áp dụng cho mình lời sấm
I-sai-a 61, nhận
lãnh Thần
Khí Thiên
Chúa trong phép rửa như được
xức
dầu
khởi
đầu
sứ
mạng
Mê-si-a. Tuy nhiên, Ngài là Đấng Mê-si-a khác xa với
vua trần
gian mà nhiều
người
trông đợi.
Chính vì thế
mà Ngài không công khai tuyên bố là Đấng Mê-si-a, mà chỉ
tỏ
cho nhóm môn đồ
khi họ
có đủ
khả
năng
lãnh hội
(9,18-21). Còn bây giờ,
lúc khai mào sứ
vụ,
Ngài thích tự
nhận
là tiên tri mang đến
Tin mừng cứu
độ.
21. HỎI: Chương
trình hành động của
Ngài gồm những gì?
THƯA:
Qua lời
tiên tri I-sai-a, Chúa Giê
su đã cho biết chương trình hành động
của
mình. Trước
hết
Ngài đem đến
ơn
cứu
độ,
giải
phóng, soi chiếu
và ủi
an những
người
nghèo khó và bị
áp bức.
Như
thế
một
năm
toàn xá đã bắt
đầu
với
việc
Ngài xuất
hiện.
Chính trong con người
của
Đấng
được
xức
dầu, Thiên Chúa đến
tha nợ
cho loài người
và giải
thoát họ khỏi
nô lệ
sự
dữ.
22. HỎI: ‘Một
năm
hồng
ân’ có nghĩa gì?
THƯA:
Năm
hồng
ân là năm
toàn xá được
định
sẵn
mỗi
50 năm
như
đã nói đến
trong sách Lê-vi (25, 20-23). Chúa Giê su xuất hiện
để
khai mạc
thời gian hồng
ântrong đó
Thiên Chúa sẽ can thiệp với
ân sủng
của
Ngài. Còn tự
do mà Ngài đem lại
cho con người
là ơn
cứu
độ
cánh chung.
21. HỎI: Phải
thực thi sứ điệp
Lời
Chúa như thế
nào?
THƯA:
Để
thực
thi sứ
điệp
Lời
Chúa hôm nay, chúng ta cần:
1. Năng
đến
với
Chúa Giê-su, để
lắng
nghe và sống
Lời
của
Người,
để
học
với
Người
về
tinh thần
và cách thi hành chức
vụ
ngôn sứ
của
người
Ki-tô hữu.
2. Dù gặp
thuận
lợi
hay không, cương
quyết
kiên trì và can đảm
thực
thi sứ
mạng
‘phát ngôn viên’ của
Thiên Chúa mà loan
báo ‘Lời tin vui cứu độ’
trong mọi
môi trường
riêng của
tôi là gia đình, khu xóm, hội đoàn, giáo xứ, công ty xí nghiệp,
cộng
đồng
xã hội
GLCG 436 Danh hiệu ‘Kitô’ là một
từ
Hy Lạp,
dịch
từ
‘Messia’ của
tiếng
Do thái, có nghĩa
là ‘người
được
xức
dầu’. Danh hiệu
này trở
thành tên riêng của
Chúa Giêsu bởi
vì Người
đã chu toàn cách hoàn hảo
sứ
vụ
thần
linh mà danh hiệu
ấy
bao hàm. Quả
vậy,
trong Israel, những
ai được
thánh hiến
cho Thiên Chúa để
thi hành một
sứ
vụ
Ngài giao phó, đều
được
xức
dầu
nhân danh Thiên
Chúa. Đó là trường hợp
của
các vua, các tư
tế
và đôi khi, các tiên tri. Đó phải là, một
cách tuyệt
hảo,
trường
hợp
của
Đấng
Messia, là người
Thiên Chúa sai đến
để
thiết
lập
Nước
của
Ngài cách vĩnh
viễn.
Đấng
Messia phải
được
xức
dầu
bằng
Thần
Khí của Chúa với
tư
cách là vua, đồng
thời
là tư
tế,
và cũng
với
tư
cách là tiên tri. Chúa Giêsu đã thực hiện
niềm
hy vọng
về
Đấng
Messia của
Israel trong ba nhiệm
vụ
của
Người
là Tư
tế,
Tiên tri và Vương
đế. (x.Nước
Thiên Chúa đã đến
gần.
Công bố
Nước
Thiên Chúa 541-550.436.695,
Chúa Giê suĐấng Được Xức
Dầu
Một,
khai trương
Giáo Hội
bằng
việc
loan báo Nước
Thiên Chúa 713-714.
763-764. 1286).