Suy
Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XV Thường Niên Năm C
THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT CỤ THỂ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 10, 25-37
(25) Và này có người thông luật kia đứng lên
hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp? (26) Người đáp: “Trong Luật đã
viết gì? Ông đọc thế nào?” (27) Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức
Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và
hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (28) Đức Giê-su
bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
(29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức
Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (30) Đức Giê-su đáp:
“Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào
tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để
mặc người ấy nửa sống nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng
đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia
mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy cũng thấy,
cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường,
tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. (34) Ông ta
lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy, và băng
bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ
mà săn sóc. (35) Hôm sau ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và
nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì
khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.(36) Vậy theo ông nghĩ, trong
ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào
tay kẻ cướp?” (37) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực
thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm
nay gồm hai phần:
- Phần một Đức Giê-su
đã đồng ý với một nhà thông luật phải giữ Luật Mô-sê là “mến Chúa hết
lòng và yêu người thân cận như yêu mình” như điều kiện để
được sống đời đời.
- Phần hai là
dụ
ngôn về người Sa-ma-ri nhân hậu, qua đó Người dạy ông phải
vượt qua điều
tùy phụ của Luật để thực hiện điều quan trọng hơn là thực
thi bác ái phục
vụ tha nhân.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25-28: +
Người thông luật: Từ này ám chỉ các Kinh sư Do thái, là những
nhà thông thái hiểu biết về Luật Mô-sê và có nhiệm vụ giải thích
Lề luật cho dân chúng tại các hội đường Do thái. + Đứng lên hỏi Đức Giê-su để
thử Người: Các người thông luật thường tự cao, nghĩ mình là
giỏi và không cần phải hỏi ai cả. Ở đây họ hỏi Đức Giê-su chỉ nhằm
thử thách và gài bẫy để có dịp bắt bẻ Người mà thôi.+
Làm gì để được sống đời đời?: Người thông luật thuộc phái Pha-ri-sêu,
là phái tin có đời sau và có sự kẻ chết sống lại, nên ông đã đặt
ra câu hỏi này, trái với các người phái Sa-đu-xê-ô không tin kẻ chết
sống lại (x. Cv 23, 6-8).+ Trong Luật đã viết gì?: Người
Do thái gọi 5 cuốn sách đầu trong bộ Thánh kinh Cựu ước là các sách
Luật Mô-sê vì do chính Mô-sê và các đồ đệ của ông đã viết ra. 5 cuốn
sách đó là: Sáng thế ký, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. + Ông
đọc thế nào?: Đức Giê-su trả lời bằng một câu hỏi, buộc
người đối thoại phải tỏ rõ lập trường của mình ra trước. +
Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa...: Người thông luật đã đọc kinh
Shê-ma là lời cầu nguyện hằng ngày của dân Do thái. Kinh này gồm hai
câu rút ra từ 2 sách Luật là Đệ nhị luật (Đnl 6, 5) và Lê-vi (Lv
19, 18). Điều đó cho thấy Cựu ước đã chuẩn bị
trước cho Tân ước. + Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời
đúng lắm...”: Để được sống đời đời thì phải sống yêu thương.
Lòng mến Thiên Chúa và yêu người thân cận luôn phải đi đôi với nhau.
- C 29-30: +
Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý: Người thông luật muốn
chứng tỏ mình thực tâm muốn tìm hiểu. Ông ta mở rộng vấn đề bằng
một câu hỏi khác bên ngoài bộ Luật và độ khó nhiều hơn so với câu hỏi
trước đã có sẵn đáp án trong Luật. + “Ai là người thân cận của tôi?”:
Câu hỏi này mở đường cho Đức Giê-su bày tỏ quan điểm mang tính cách
mạng của Người, khác với quan niệm cổ truyền hẹp hòi của các nhà
thông luật của dân Do thái về đối tượng phải yêu mến. Đó là phải yêu
cả kẻ thù của mình nữa! + Con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống
Giê-ri-khô: Con đường này dài gần 25 cây số, băng ngang hoang địa
Giu-đa, thời đó có nhiều băng trộm cướp ẩn núp hoạt động.
- C 31-33: +
Thầy tư tế đi xuống: Tư tế là người thuộc dòng dõi A-ha-ron có
nhiệm vụ dâng chiên bò sát tế trong Đền thờ. Vị này đi xuống
Giê-ri-khô vì thành này dành cho gia đình các tư tế ở. +
Thầy Lê-vi: hay trợ tế, thuộc dòng dõi Ghéc-sôn, là một trong
ba ngành lớn của dòng họ Lê-vi (x. St 46, 11). Các thầy
trợ tế Lê-vi có nhiệm vụ đàn hát trong các buổi thờ phượng tại Đền
thờ. + Một người Sa-ma-ri kia: Sa-ma-ri là một miền đất nằm
ở giữa hai miền là Ga-li-lê phía Bắc và Giuđê phía Nam của nươc Do thái.
Dân miền này bị người Do thái coi là dân lai căng và khinh thường họ.
Vì trong cuộc lưu đày vào năm 721, một số người Do thái ở miền này
đã không bị đi lưu đày. Họ ở lại và dựng vợ gả chồng lẫn lộn với
dân Ni-ni-vê từ Ba-tư kéo xuống. Dân Sa-ma-ri này thờ Đức Chúa tại núi
Ga-ri-dim, và không hành hương lên Đền thờ Giê-ru-sa-lem như người Do
thái. Họ cũng có thái độ thiếu thân thiện như không cho những người
Do thái đi hành hương Giê-ru-sa-lem vào ở trọ trong làng của họ (x. Lc 9, 53).
- C 34-35: +
Lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương: Người Sa-ma-ri này đã
làm động tác sơ cấp cứu theo y học sơ đẳng thời bấy giơ, là dùng
dầu để làm giảm đau và dùng rượu để rửa sạch vết thương. + Hai
quan tiền: Tương đương 2 ngày công lao động thời đó (x Mt 20, 9).
- C 36-37: +
“Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ
cướp?”:
Như vậy, chúng ta sẽ trở thành thân cận của người gặp nạn kia nếu
chúng ta yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ họ. + Hãy làm như vậy:
Đức Giê-su chấp nhận lối xử thế của người Sa-ma-ri. Người đề nghị nhà
thông luật hãy làm như người Sa-ma-ri. Tình thương Ki-tô giáo không biên
giới, không cần biết người cần giúp đỡ có cùng chủng tộc, tôn giáo
với mình hay không.
4. CÂU HỎI: 1) Lòng tin về mầu nhiệm kẻ
chết sống lại của hai phái tôn giáo thời Đức Giê-su là Pha-ri-sêu và
Sá-đu-xê-ô khác nhau thế nào ? 2) Sách Luật Mô-sê gồm có mấy cuốn và
là những sách mào ? 3) Hằng ngày người Do thái ngoan đạo phải cầu
nguyện bằng việc đọc kinh Shê-ma, kinh này được rút ra từ sách nào ?
Lời kinh ấy nêu ra hai bổn phận nào người Do thái phải làm ? 4) Đức Giê-su
dạy người Pha-ri-sêu hãy làm theo gương của ai trong dụ ngôn người Sa-ma-ri
nhân hậu?
II.
SỐNG LỜI CHÚA:
1.
LỜI CHÚA: “Ông hãy đi, và cũng làm như vậy”.
2.
CÂU CHUYỆN:
1) TỨ
HẢI GIAI HUYNH ĐỆ:
Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi
các đệ tử của ông như sau
-"Làm thế nào để xác
định lúc nào đêm cũ qua đi nhường chỗ cho ngày mới bắt đầu?"
Sau vài phút suy nghĩ, một
đệ tử giơ tay xin trả lời:
-"Thưa thầy, đó là khi ta phân biệt được một con thú
từ xa là con bò hay là con ngựa".
Câu trả lời đã không làm
cho nhà đạo sĩ ưng ý. một đệ tử khác lên tiếng:
-"Là khi từ đàng xa ta
phân biệt được cây xoài hay cây mít".
Vị đạo sĩ lại lắc đầu. Khi
các đệ tử nhao nhao muốn biết đáp án của thầy, ông mới ôn tồn nói:
-"Đó là khi ta nhìn vào mặt của bất cứ ai mà nhận ra
đó là anh em của ta. Vì nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm
có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi".
2) TRÁNH
THÁI ĐỘ THỜ Ơ TRƯỚC NỖI ĐAU CỦA THA NHÂN :
Cách đây ít lâu trang mạng
Te-le-graph và các trang mạng khác ở Trung Quốc và trên thế giới đều đồng lọat
phát đi một đọan video clip và bình luận về tai nạn tại thành phố Phật Sơn tỉnh
Quảng Đông mà nan nhân là một bé gái 2 tuổi tên Duyệt Duyệt (Yue Yue) đang đi
ngòai đường tại khu chợ ổ gần nhà, và đã bị một chiếc xe tải nhỏ đụng phải. Đoạn
video clip từ một máy quay bảo vệ an ninh tại hiện trường cho thấy viên tài xế
xe tải sau khi đụng bé Duyệt Duyệt ngã ra đường, đã chỉ dừng lai một chút rồi lại
tiếp tục chạy khiến bánh sau chiếc xe cán qua người bé lần thứ 2. Tuy nhiên, sự
việc không dừng lại ở hành động phi nhân tính của gã tài xế. Chính thái độ thờ
ơ của những người qua đường sau đó mới khiến người Trung Quốc băn khoăn tự hỏi
không biết tương lai đất nước của họ sẽ đi về đâu ?
Thực vậy: trong suốt 7
phút từ lúc bé Duyệt Duyệt gặp nạn, lần lượt đã có tới 18 người đi ngang qua
nơi cô bé bị nạn nằm trên đường, nhưng chẳng một ai quan tâm giúp đỡ. Người đầu
tiên là một thanh niên mặc áo phông trắng và quần thể thao, đi qua bé gái nằm
sõng soài trên đường, máu tuôn ra trên mặt, nhưng anh ta đã ngó lơ. Tiếp theo
là một người đi xe đạp nhìn thấy em đã chạy vòng qua tiếp tục đi. Anh ta đã
ngóai lại xem có phải một người bị nạn đang nằm ở đó hay không, rồi lại thản
nhiên đạp xe đi tiếp. Khi máu tuôn ra nhiều hơn, một người đi xe đạp nữa xuất
hiện. Người này không chút quan tâm tới số phận của đứa trẻ. Ba con người vô cảm
vừa nói đã không giúp đỡ bé Duyệt Duyệt đáng thương, dù chỉ làm một việc đơn giản
là kéo cô bé vào bên vệ đường. Sự thờ ơ của họ đã dẫn tới sự kiện một tài xế xe
tải khác đi tới, do đang nói chuyện diện thọai không nhìn thấy bé Duyệt Duyệt
trên đường nên đã cán xe lên người em. Sau lần bị xe đè này, bé Duyệt Duyệt đã
không còn cử động nữa. Liên tiếp sau đó, rất nhiều người đi xe đạp và cả một số
người đi xe chở hàng qua khu vực nạn nhân nằm vẫn không hề quan tâm tới bé Duyệt
Duyệt. Cũng có một người phụ nữ dắt theo đứa con đi qua, thấy bé Duyệt Duyệt bị
nạn lại rảo chân bước nhanh hơn ngang qua em...
Chỉ tới khi một nữ lao
công quét đường 58 tuổi đi tới, thì bé Duyệt Duyệt mới được cứu giúp. Bà này vội
hạ túi đồ xuống và lôi đứa trẻ sang một bên đường để tránh cho bé khỏi bị xe
cán tiếp. Rồi bà tri hô lên yêu cầu được trợ giúp. Bấy giờ mẹ đứa trẻ nghe thấy
hớt hải từ trong nhà chạy ra và vội mang con đi cấp cứu tại một bệnh viện gần
đó. Tuy nhiên, sự can thiệp đã quá muộn. Các bác sĩ nói rằng bé Duyệt Duyệt do
bị chảy máu nhiều nên bị suy hô hấp và còn bị chấn thương sọ não nghiêm trọng
không được cấp thời cứu chữa nên khó có cơ hội hồi phục lại được và cuối cùng
đã chết trong nỗi tiếc thương của cha mẹ và người thân của em.
Chính thái độ thờ ơ của
nhiều người khi tai nạn xảy ra khiến bé Duyệt Duyệt đã bị chết thảm vì không được
kịp thời giúp đỡ. Người cuối cùng ra tay cứu em lại là một người nghèo tiền
nhưng giàu lòng nhân ái. Còn chúng ta sẽ làm gì nếu chứng kiến cảnh bé gái bị
tai nạn nói trên ?
3) CON
NGƯỜI CHỈ ĐƯỢC HẠNH PHÚC KHI BIẾT QUẢNG ĐẠI CHO ĐI :
Có một câu chuyện ngụ ngôn
như sau: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc.
Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ
cao đặt giữa thành phố và đặt tên bức tượng là “Ông Hoàng Hạnh Phúc”, như biểu
tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc cho người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa
đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống
đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông
đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc
nhiên hỏi rằng:
- Tại sao ông khóc? Ông là
Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Ông hoàng trả lời: Từ
khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không
còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái
bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay
đi cho kịp đàn đang bay về phương Bắc.
- Hãy làm ơn giúp ta một đêm
nay thôi.
- Chim én ngập ngừng giây
lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng
kia có một người mẹ đang khóc vì đứa con trai bệnh nặng mà bà lại không tiền mời
bác sĩ đến chữa. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
- Chim én dùng mỏ lấy viên
ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo được cho con trai khỏi
bệnh.
- Hôm sau Ông Hoàng lại
xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo
gần đó. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác. Cứ thế hết ngày này sang
ngày khác, con chim én lần lượt lấy các đồ trang sức quý giá của Ông Hoàng đem
cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó
đã là giữa mùa đông, trời đã trở lạnh rất nhiều.
Vào một buổi sáng, người ta thấy xác con chim
én nằm chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố,
mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh
của Ông Hoàng Hạnh Phúc và chim én nhỏ bé kia mang lại.
4)
PHẦN THƯỞNG CỦA HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI LÀ NIỀM VUI TÂM HỒN:
Một lần kia, một người Mỹ lái
xe đưa gia đình đi du lịch đến Alaska trong một nhà xe di động. Bỗng nhiên trục
xe bị gãy khiến ông rơi vào tình huống khó khăn ngay ở nơi đồng trống. Ông cho vợ
con xuống xe và một mình đi bộ tìm người giúp đỡ, vì lúc bấy giờ chưa có điện
thoại di động như ngày nay.
Sau khi đi được một dặm thì
đến một nông trại, ông vào gặp và trình bày cho chủ nông trại biết hoàn cảnh khó
khăn đang gặp phải. Chủ nông trại tỏ ra thông cảm, ông ta lái xe công nông đến kéo
chiếc xe và nhà xe di động về nông trại để sửa chữa hàn lại cái trục bị gãy.
Khi công việc hoàn tất, người du khách nói:
- Tôi phải trả ông bao
nhiêu?
- Ông không phải trả gì cả.
- Nhưng tôi nghĩ tôi phải
trả công cho ông theo phép công bằng.
- Thì ông đã trả công cho
tôi rồi đó.
- Ông nói gì tôi không hiểu.
- Ông đã cho tôi cảm giác hạnh
phúc khi giúp được gia đình ông vượt qua hoàn cảnh khó khăn.
Người du khách ngạc nhiên vì đã gặp được một
người tốt bụng có lòng quảng đại như vậy. Còn chúng ta sẽ làm gì để cảm thông
và sẵn sàng giúp đỡ không công người lâm cảnh khốn khó?
3.
THẢO LUẬN: 1) Bài Tin mừng mời chúng ta hãy xét mình: “Tôi thường cư
xử thế nào đối với những kẻ đang gặp hòan cảnh khó khăn? 2) Tôi cần
làm gì khi gặp một người bị tai nạn trên đường để vừa thi hành được đức
bác ái, lại vừa khôn ngoan phòng tránh bị hiểu lầm là chính mình đã gây ra tai
nạn?
4. SUY
NIỆM:
1) “Cứ làm như vậy là ông sẽ được sống đời đời”
:
Người thông luật đã hỏi Đức
Giê-su và sau đó ông đã tự tìm ra đáp án trong Luật Mô-sê: “Ngươi hãy yêu mến
Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,
và hết trí khôn ngươi, và yêu người thân cận như yêu chính mình”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời
đúng lắm. Cứ làm như vậy là ông sẽ được sống”.
2)
“Ai là người thân cận của tôi?” :
Người thông luật lại hỏi Đức
Giê-su: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Đức Giê-su đã kể dụ
ngôn về người Sa-ma-ri tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giê-ru-sa-lem xuống
Giê-ri-cô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên
lề đường. Đang khi hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người
Sa-ma-ri ngoại đạo dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn
sóc và sẵn sàng trả thêm tốn phí săn sóc nạn nhân cho chủ quán. Qua đó cho thấy
người thân cận của chúng ta là mọi người đang cần được trợ giúp. Người thân cận
có thể không phải ai khác mà là chính những người cùng sống chung một nhà, cùng
sinh họat trong nhóm, là một bà hàng xóm, là cô bạn đang ở chung phòng, là người
thân mà chúng ta đang phải chịu đựng thói hư… Tóm lại là tất cả những ai đã và
đang gây ra đau khổ cho chúng ta… Tất cả đều có thể được chúng ta yêu thương và
sẽ trở nên người thân của chúng ta. Chỉ cần dừng lại, cúi xuống phục vụ là họ
đang từ một người xa lạ hay đáng ghét lập tức trở thành thân quen, từ kẻ thù
hóa thành bạn hữu của chúng ta.
3)
“Kẻ đã thực thi lòng thương xót”:
Yêu thương không chỉ là cho đi một cái gì,
nhưng còn là cho đi chính bản thân, là quên mình để hiến thân phục vụ tha nhân:
Kahil Gibram đã nói chí lý: "Bạn cho đi quá ít khi mới cho đi của cải. Chỉ
khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi". Càng đi tìm bản thân,
con người càng đánh mất chính mình. Càng muốn được yên thân, con người càng bị
vong thân. Các tín hữu chúng ta chỉ trở
thành con Thiên Chúa khi dám chịu thiệt thòi vì người khác như mẹ Tê-rê-xa
Can-quýt-ta đã phát biểu: "Ki-tô hữu là người trao ban chính thân mình cho
tha nhân".
Thánh Au-gút-ti-nô dạy:
“Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Quả thực, khi yêu rồi thì chúng ta sẽ biết
mình phải làm gì trong bất kỳ tình huống nào. Bấy giờ chúng ta sẽ có sáng kiến
để phục vụ tha nhân là những người nghèo khổ bất hạnh đang sống gần bên chúng
ta cách hữu hiệu. Khi đã yêu, chúng ta sẽ biết cách làm cho một kẻ xa lạ trở
thành người thân, kẻ thù địch trở nên bạn hữu theo gương người Sa-ma-ri trong
Tin Mừng.
4)
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”:
Qua dụ ngôn này Đức Giê-su
muốn dạy nhà thông luật và các tín hữu chúng ta bài học: hãy yêu thương bằng hành
động cụ thể. Sở dĩ hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì sợ: sợ
bị ô uế theo Luật khi đụng vào xác chết; Sợ bị bọn cướp quay lại; sợ bị phiền
hà... Nhiều người trong chúng ta cũng không dám giúp đỡ tha nhân gặp nạn là do
chúng ta cũng sợ bị tốn nhiều công sức, tiền bạc và thời giờ... Đang khi người Sa-ma-ri
trong dụ ngôn đã vượt qua những nỗi sợ hãi ấy. Tông đồ Gio-an đã khuyên các tín
hữu: "Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương
cách chân thật và bằng việc làm" (1 Ga 3, 18).
Tình yêu thực sự đòi thể hiện bằng các hành
động cụ thể cá nhân và tập thể như sau: Thực hành yêu thương hôm nay là phải biết
“nghĩ đến người khác”: Sẵn sàng bị lấm lem chân tay quần áo, sẵn sàng đối mặt với
những rắc rối có thể xảy ra cho mình. Vặn âm thanh vừa đủ nghe lúc ban đêm để
tôn trọng láng giềng đang cần được nghỉ ngơi; Không đổ rác thải ra đường hay vứt
xuống sông lạch để tránh gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra nên có những hoạt động
bác ái tập thể như chia sẻ quà Tết quà Giáng Sinh cho người nghèo, mở lớp học
tình thương cho trẻ bụi đời, chăm sóc người già neo đơn… Tránh làm những gì gây
phiền hà cho tha nhân. Chẳng hạn: Khi rước kiệu Thánh Thể ra đường lộ, chúng ta
vừa đi vừa đọc kinh ca hát, tưởng rằng đang làm sáng danh Chúa. Nhưng có biết
đâu rằng các tài xế xe hơi, xe máy và bao hành khách sợ trễ giờ hẹn lại đang bức
xúc và thêm lòng thù ghét Chúa và Hội thánh...
5. LỜI
CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho
mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau trong ánh mắt kẻ khác, đặc
biệt là của các người thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng
con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất là của những người
cùng chung huyết thống với chúng con. Xin cho chúng con biết thương xót
những ai đang lâm cảnh khốn cùng, cho chúng con đừng bao giờ phớt lờ bỏ
đi vì ngại vất vả cực nhọc hay sợ bị họ lừa dối... Xin cho chúng con
biết nói với họ: “Này anh, tôi có thể giúp gì được cho anh không?” rồi
giúp đỡ phục vụ họ hết khả năng.
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM
ĐAN VINH - HHTM