CHỦ NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN
Hi vọng, có thể định
nghĩa như là mạo hiểm ép buộc
tình yêu Thiên Chúa. Một người bạn của Thiên Chúa là ông
Abraham dám liều mạng ra trước nhan Người nài nỉ cho dân Do thái. Tâm hồn của
Thiên Chúa rộng lượng đến độ sẵn sàng nghe người khác van nài. Đó là vì Thiên
Chúa sẵn sàng mở rộng bàn tay và ban cho con cái Người sự sống trong Đức Ki tô.
Nếu thế thì tại sao chúng ta lưỡng lự? Dù xin gì đi nữa, Thiên Chúa biết điều
mà chúng ta đang cần đến. Rốt cục, Người sẽ ban cho chúng ta Thần khí của Người
và ban cách dư dật.
Sách Sáng thế 18,20-32
Ông Abraham nài nỉ
Thiên Chúa, và cuối cùng Người đã bằng lòng chấp nhận những yêu cầu ông đưa ra.
Thiên Chúa chờ đợi con người xin để tha thứ. Nếu tất cả người ki tô hữu cầu
nguyện, thì nhiều chuyện đã thay đổi! Bình an của thế giới ở cuối đường cầu
nguyện của con người.
Thánh vịnh 137
Thánh vịnh nầy là lời
chúc tụng và tạ ơn bởi vì Thiên Chúa đã nghe tôi tớ của Người. Người quan tâm đến
lời cầu nguyện của lòai người. Người giải thoát họ.
Thư Cô lô sê 2,12-14
Trong Chúa Giê su chết
vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ cho thấy tình yêu viên mãn của Người. Người
giải thoát chúng ta khỏi thế giới bị kết án, điều mà sự Cắt bì của do thái giáo
không thể hòan thành được. Người làm cho chúng ta được sống. Hồng ân mà Người
mong muốn chia sẻ cho tất cả mọi người đó là một sự Phục sinh.
Tin mừng Lc 11,1-13
NGỮ CẢNH
Đoạn văn nầy nằm trong
phần giáo huấn của Chúa Giê su cho các môn đệ trên đường đi về Giê ru sa lem.
Chúng ta có thể đọc bản
văn theo bố cục sau đây:
1. các môn đệ xin Chúa
Giê su dạy cho họ cầu nguyện và Ngài đã day họ một lời cầu nguyện mẫu mực
(11,1-4).
2. Chúa Giê su kể dụ
ngôn về anh bạn quấy rầy. Dụ ngôn nầy của riêng Lu ca (11,5-8).
3. Chúa Giê su triển
khai thêm giáo huấn bằng lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Người luôn
luôn nhậm lời (11, 9-13)
TÌM HIỂU
Một ngày kia: Mát thêu thường gom
các giáo huấn của Chúa Giê su thành các diễn từ dài (như kinh Lạy Cha được đặt
trong bài diễn từ trên núi). Trái lại Lu ca thì thích dàn trải ra trong nhiều
hòan cảnh đặc biệt: x. 11,37; 12,1;13,1; vv). Ông ít để ý đến thời gian và nơi
chốn Chúa Giê su dạy về sự cầu nguyện. Điều chủ yếu là Ngài cầu nguyện và Lu ca
thường hay ghi chú điều đó. Do đó, lời kinh mà giờ đây Chúa Giê su dạy các môn
đệ là lời vọng lại lời kinh của chính Ngài.
Ông Gioan: tác giả đã có dịp so sánh
giữa các môn đệ của ông Gioan và các môn đệ của Chúa Giê su khi nói về việc ăn
chay và cầu nguyện (5,33). Có lẽ đây là một dấu vết cho thấy có tranh chấp giữa
hai nhóm. Có thể là các môn đệ của ông Gioan có lời kinh riêng của nhóm như vẫn
thường thấy trong các nhóm tôn giáo, và các môn đệ Chúa Giê su cũng muốn có lời
kinh riêng giống như thế.
Anh em hãy nói: kiểu thức kinh Lạy
Cha trong Lc dài hơn trong Mát thêu thường được truyền thống và phụng vụ sử dụng
hơn. Tuy nhiên, bản văn ngắn hơn của Lu ca có lẽ gần với chính lời của Chúa Giê
su hơn.
Lạy Cha: Tiếng gọi đơn giản mà Chúa
Giê su sử dụng trong vừon cây dầu (22,42), chắc chắn tương ứng với tiếng kêu
Cha là Abba, được để nguyên như vậy
trong Mc 14,36 ở cùng một hoàn cảnh tương tự. Điều đó giả thiết sự thân mật cha
con hơn là cách thức long trọng “Lạy Cha chúng con” trong Mt 6,9.
Danh thánh Cha: danh là một cách nói
kính trọng để chỉ Thiên Chúa. Nguyện Danh Thiên Chúa hiển thánh có nghĩa là
Thiên Chúa được nhìn nhận và tỏ hiện như là thánh,
nghĩa là hòan toàn ngược lại với tội lỗi, và là đấng độc nhất, đấng Hoàn
toàn Khác. Bởi vì chỉ có mình Thiên Chúa là thánh, Người là đấng độc nhất có thể
“làm cho danh Người hiển thánh”. Các tín hữu được mời gọi nhìn nhận và bày tỏ sự
thánh thiện của Thiên Chúa. “Ta sẽ biểu
dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta […]. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta
là Đức Chúa khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt
chúng” (Êd 36,23).
Triều đại Cha: Triều đại Thiên Chúa
đã gần đến (10,9). Luca có lẽ đã nghĩ rằng lời cầu xin thứ hai nầy đã đủ và do
đó đã không thêm như trong Mt: “Xin thánh ý Cha được thể hiện, trên trời cũng
như dưới đất”
Hằng ngày: ý nghĩa của từ nầy trong tiếng
hi lạp dịch như thế là không chắc chắn. Có thể chỉ bánh ăn mỗi ngày, hoặc là
bánh ngày mai. Kiểu nói “hằng ngày” của bản dịch bao gồm cả hai khía cạnh.
Trong trường hợp đó có thể nói đến bánh vật chất.
Lời xin nầy không đi
ngược lại các lời dạy của Chúa Giê su về sự từ bỏ, về lòng phó thác nơi Thiên
Chúa Quan phòng và sẵn sàng chờ đợi Chúa trở lại, đặc biệt trong đoạn 12,
22-40.
Bản dịch Vulgata,
trong kinh Lạy Cha theo Mt, dịch từ nầy bằng “super substantialem” (= siêu nhiên). Từ ấy không lọai bỏ khía cạnh lương
thực cho thân xác, có thể chỉ Lời Thiên Chúa, hay Thánh Thể, bánh bởi trời,
theo đường hướng mà chúng ta tìm thấy trong Ga 6,31-33 hay trong Lc 4,4.
Nếu “bánh” mà chúng ta
xin thuộc về triều đại tương lai, thuộc thế giới thiên quốc, chắc chắn chúng ta
không thể trách người xin được bánh hằng ngày.
Tội chúng con: Từ “nợ nần” đầy âm
hưởng sê mít trong bản Mt được Luca dịch là “tội”, và đã được khai triển trong
dụ ngôn về người đầy tớ không biết thương xót (Mt 18,23-35). Tuy nhiên Lu ca
quay trở lại ý niệm nầy khi nói về người “mắc nợ” ở cuối câu. Ngòai ra, ông còn
dựa trên hình ảnh nợ nần để khai triển một dụ ngôn riêng của ông (7,41-43).
Đối với Mt cũng như
Lc, sự tha thứ có tính hiện tại và người ta phải luôn luôn tha thứ: “chúng tôi
tha thứ”.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ: cùng một kiểu nói như trong Mt. Dịch sát chữ: “Xin đừng để chúng con bị
cám dỗ”. Sự cám dỗ ở đây không phải là cám dỗ đưa đến tội lỗi, nhưng là thử
thách đức tin, bắt đầu từ gương xấu của các môn đệ trong cuộc khổ nạn. Dường như
Lc gán cho cám dỗ ý tưởng nền tảng ấy, bởi vì ông không thêm vào như Mt: “nhưng
cứu chúng con khỏi sự dữ”. Sau nầy, Chúa Giê su sẽ nói điều tương tự với các
môn đệ của Ngài trên núi Ô liu: “Anh em hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”
(22,40-46).
Một người bạn: người ta thường gọi
dụ ngôn nầy là: “người bạn quấy rầy”. Thật vậy, nó nhằm đề cao sự cần thiết phải
khẩn khoản và lặp đi lặp lại trong cầu nguyện (x. 18,1-8).
Nhưng trước tiên, người
ấy lại là một người bạn bị quấy rầy. Lời cầu khẩn của anh không ích kỉ, nhưng
phát xuất từ nhu cầu của một người khác và từ lòng bác ái huynh đệ. Nhiều chi
tiết khiến cho lời cầu xin trở nên khẩn khoản như: “giữa đêm”, “cửa đã đóng”,
“đã nằm trên giường”.. Kết lưận chỉ được đưa ra vào lúc kết thúc phần khai triển
đi sau đó: “Cha anh em trên trời sẽ ban Thánh Thần cho anh em hơn biết mấy..”
(11,13). Cũng cùng một lí luận như vậy trong 18,1-8.
Thầy bảo anh em: Chúa Giê su thêm vào
dụ ngôn một lời kêu gọi hãy tin vào sự phong phú nơi ơn ban của Thiên Chúa. Bằng
cách ấy, Ngài hứa với các tín hữu rằng họ sẽ được nhậm lời. Các động từ ở thể bị
động nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa: ai xin, sẽ được Thiên Chúa ban cho, ai gõ cửa, sẽ được Thiên Chúa mở cho.
Kẻ xấu: Chúa Giê su không kết án mọi
người. Họ chỉ “xấu” đối với Thiên Chúa là Đấng độc nhất tốt lành (18,19).
Thánh thần: trong khi ở Mt 7,11 kết luận:
“Cha anh em sẽ ban cho anh em những điều
tốt lành” thì ở Lc lại nói “Thánh Thần”.
Đó là ơn ban tuyệt vời nhất: điều duy nhất mà người tín hữu có thể xin với sự
xác tin sẽ được nhậm lời, là Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,12-14; 2,1-41).
SỨ ĐIỆP
Hôm nay, Chúa Giê su dạy
chúng ta kiên trì cầu nguyện theo gương ông Abra ham. Bài đọc thứ nhất cho
chúng ta thấy ông Abraham đang đàm thoại thân mật với Thiên Chúa. Ông đang làm
một điều ít ai dám làm là liều mạng mặc cả xin Thiên Chúa tha thứ cho thành Sô
đô ma tội lỗi. Abraham không cầu xin điều gì cho mình, nên ông không biết sợ và
thất vọng. Ông tin chắc chắn Thiên Chúa là đấng công minh, nhưng cũng đầy lòng
thương xót. Vì thế, Abraham mạnh dạn mặc cả với Chúa: «Nếu chỉ có mười người,
thì Chúa có tha thứ không ?.. »
Nếu chúng ta tham chiếu
các bản văn Thánh Kinh khác, chúng ta sẽ khám phá ra rằng ông Abraham còn có thể
đi xa hơn trong lời mặc cả của mình. Như sau nầy Tiên tri Giê rê mi a sẽ làm bước
ấy khi nghĩ rằng một người thôi cũng đủ được tha thứ: “Đi rảo khắp các đường phố
Giê ru sa lem, hãy tìm nơi các công trường một người duy nhất biết thi hành luật
pháp, biết sống cho chân thât. Bấy giờ ta sẽ tha thứ cho thành” (Gr 5,1).
Cuối cùng các thành Sô
đô ma và Gô mô ra đã bị hủy diệt. Vấn đề không phải là tìm xem điều đó có thực
sự xảy ra như thế không. Có thể có do một tai ương nào đó. Nhưng điều quan trọng
hơn cả ở chỗ khác. Nó nằm trong sự kiện là Thiên Chúa thích con người bào chữa
cho anh em mình. Như ông Mô sê, khi thấy
dân mình cúi mình thờ lạy con bò vàng,
ông liền bắt đầu khẩn xin Thiên Chúa tha thứ.
Người ta phải tìm đến
sách tin mừng để tìm một người công chính thực sự duy nhất có thể mang lại sự
tha thứ cho tất cả. Ơn tha thứ mà Ngài nhận được không nhắm cho một thành phố nữa
mà là cho cả nhân lọai. Kinh nguyện Thánh Thể thứ hai xin ơn giải hòa nói rằng:
“Con Một Chúa, người công chính duy nhất đã tự hiến trong tay chúng con và đã bị
đóng đinh vào cây thập giá”. Vậy chính nhờ Người mà tất cả mọi người ở mọi thời
đã được cứu thoát. Đó là cách làm của Thiên Chúa: vì một người công chính duy
nhất, Người đã tha thứ cho muôn người. Đó cũng là vai trò của chúng ta, các môn
đệ của Chúa, dù chúng ta là con số ít ỏi.
Chúng ta phải hiểu cho
đúng: đó không phải là vấn đề con số mà là vấn đề tình yêu và hiến dâng cuộc sống.
Vai trò của chúng ta là sống như những người công chính với Chúa Giê su, đó
cũng là cầu thay cho tất cả những người chung quanh chúng ta. Chúa Giê su đòi
chúng ta phải là những người cầu nguyện, cầu thay cho đám đông.
Cách cầu nguyện hay nhất
là theo học trường Chúa Giê su, đó là xin Ngài dạy chúng ta cầu nguyện. Và Chúa
Giê su đã để lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Ngài. Chúng ta được nhận tham
dự vào lời cầu nguyện của Ngài. Đó thực sự là một tin mừng vì nếu Chúa Giê su
hiện diện, chính là để tỏ cho chúng ta biết Ngài là con đường duy nhất dẫn tới
Cha. Ngài chính là đường, là sự thật và là sự sống; tất cả những ai muốn cầu
nguyện đều phải qua Ngài.
Lời kinh mà Chúa Giê su dạy chúng ta hướng chúng ta về Thiên
Chúa là Cha, về tình yêu nơi Danh Thánh Ngài. Khi Thánh Kinh
nói với chúng ta về Danh thì đó chính là Thiên Chúa. Vì thế tất cả mọi người cần
phải nhận biết Ngài là Cha yêu thương say đắm con cái mình như thế nào. Nguyện
cho Danh Thiên Chúa được vinh hiển có nghĩa là nhìn nhận sự cao cả của Người, sự
bao la nơi tình yêu của Người.
“Xin cho nườc Cha trị
đến!”. Vương quốc của Thiên Chúa là điều mà chúng ta phải tìm kiếm trước tiên bởi
vì nó giải phóng thế gian và tâm hồn con người.
“Xin cho Thánh ý cha
thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thánh ý của Thiên Chúa không phải là ý
muốn của một nhà độc tài áp đặt lề luật của mình trên toàn dân. Trái lại, ý muốn
của Thiên Chúa Cha là tất cả mọi người đều được cứu độ.
“Xin cho chúng con hôm nay lương thực ngày này!”.
Chúng ta nghĩ đến thức ăn nuôi dưỡng thân xác, nhưng cũng đến Lời Thiên Chúa
nuôi dưỡng đức tin của chúng ta. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta,
và cho những người khác, bởi vì tất cả đến từ Người. Chính Người làm cho chúng
ta được sống.
“Xin tha cho chúng con
tội lỗi của chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những người xúc phạm đến
chúng con”. Tất cả chúng ta đều biết tha thứ cho người khác khó khăn như thế
nào. Khi vết thương do một người mà chúng ta yêu quí gây ra, thì thực là đau đớn.
Ngày hôm nay, Chúa Giê su nói rằng Thiên Chúa luôn luôn tha thứ trước tiên.
Ngài mở tâm hồn chúng ta và giải thoát chúng ta.
“Xin đừng để chúng con
thua chước cám dỗ nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Bị cám dỗ tức là muốn
quay lưng chống lại Thiên Chúa. Thánh Gia cô bê xác định rõ: “Đừng có ai nói rằng:
cơn cám dỗ đến từ Thiên Chúa; Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu và
cũng không cám dỗ ai. Người ta bị cám dỗ vì bị mê hoặc và lôi kéo bởi sự ham muốn
riêng của mình. Lời cầu ấy có nghĩa là: “Đừng để chúng con thua chước của Tên
Cám dỗ tức là Ma quỉ. Cơn cám dỗ nặng nề nhất là nghi ngờ về tình yêu của Thiên
Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su
nhấn mạnh nhiều đến sự quan trọng của lời cầu nguyện: “Hãy xin thì sẽ được !”
Ngài không nói rằng chúng ta sẽ lãnh nhận đúng điều mình xin. Nhưng Ngài không
bao giờ bác bỏ điều mà chúng ta xin. Người yêu thương chúng ta tất cả như con
cái Người, cả những kẻ bị lọai trừ, bị gạt ra bên lề xã hội. Người biết chúng
ta cần gì trước khi chúng ta cầu xin Người.
Nếu Ngài bảo chúng ta
phải tha thiết cầu nguyện chính là để chúng ta xứng đáng lãnh nhận nhiều hơn điều
Ngài muốn ban cho chúng ta. Khi hướng về Thiên Chúa, chúng ta học được cách thức
chiều theo tình yêu của Người. Khi đến gần Người, tâm hồn chúng ta mở ra cho
Thánh Thần của Người, Những vấn đề của chúng ta không được giải quyết ngay tức
khắc đâu, nhưng chúng ta không cô đơn vì chúng ta sống với Người.
Khi chúng ta tập họp để
cử hành lễ Tạ ơn, Chúa hiện diện để dạy chúng ta cầu nguyện. Chúng ta hãy không
ngừng cầu nguyện, cầu cho thế gian tội lỗi nầy. Ứơc gì lời kinh của chúng ta thực
sự phổ quát, truyền giáo, và ước gì trọn cuộc đời của chúng ta là lời kinh giữa
mọi người, ngỏ hầu tất cả đều được cứu thoát. AMEN.
ĐÀO SÂU
KIÊN TRÌ CẦU
NGUYỆN
St 18,20-21, 23-32 Áp-ra-ham kiên trì khẩn cầu Thiên Chúa tha
thứ cho kinh thành bị lên án
Tv 138,1-2a, 2b-3, 6-7ab,
7c-8 Lạy Chúa,khi con kêu cầu, Chúa nhậm
lời con
Cl
2,6-14 Thập giá Đức Ki tô là nguồn mạch đời
sống chúng ta
Lc 11,1-13 Chúa Giê su dạy các môn đệ cầu nguyện luôn
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN. Lời cầu nguyện kiên
trì của Áp-ra-ham đã được Thiên Chúa nhậm lời và tha thứ cho thành Sô-đô-ma
(Bđ1). Chúa Giê su dạy các môn đệ tha thiết cầu nguyện
(BTM). Còn thánh Phaolô thì khẳng định Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta
nên chúng ta không còn lý do gì để ái ngại khi cầu nguyện (Bđ2).
2. HỎI: Bối
cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bối cảnh là thế này: Thiên Chúa và hai thiên thần đã cải trang
đến thăm Áp-ra-ham
và được ông ân cần đón tiếp trong lều của mình (xem
bài đọc thứ nhất của tuần trước, Stk 18,
1-10a). Sau
đó, các ngài bắt đầu lên đường đi đến gần Sô-đô-ma, và Áp-ra-ham cùng đi với các
ngài. Bấy
giờ Thiên Chúa quyết định tỏ cho Áp-ra-ham biết kế hoạch
tiêu diệt thành
nầy vì hai tội: một là họ không có lòng hiếu khách, hai là cuộc sống họ quá sa
đọa.
3. HỎI:
Nội dung bài đọc một (St 18,20-21, 23-32) như thế nào?
THƯA: Bài đọc một kể lại việc
ông Áp-ra-ham tha thiết cầu xin
Thiên Chúa vì những người công chính tha thứ tội lỗi cho thành Sô-đô-ma và đừng
đánh phạt họ.
4. HỎI: Ông đã ‘kiên trì’
như thế nào?
THƯA: Ông đã kiên trì ‘mặc cả’ với
Thiên Chúa và thành công trong việc hạ thấp con số những người công chính từ 50
lúc đầu xuống còn 10.
5. HỎI: Nhờ đâu mà lời cầu
nguyện của ông có sức mạnh?
THƯA: Lời cầu nguyện của ông được
mạnh mẽ bởi vì ông chỉ dựa vào lòng tin tưởng của mình nơi Thiên Chúa.
6. HỎI: Điểm đặc biệt
trong bài đọc một là gì?
THƯA: Bài đọc cho thấy đây là lần
đầu tiên người ta dám tưởng tượng rằng một người phàm lại có thể can thiệp vào
chương trình của Thiên Chúa.
7. HỎI: Bài đọc một dạy
chúng ta điều gì?
THƯA: Bài đọc một dạy chúng ta
hai điều: thứ nhất, đối với Thiên Chúa lòng thương xót là quan trọng nhất. Thứ
hai, không chỉ cầu nguyện cho bản thân mình, nhưng phải cầu nguyện cho tất cả mọi
người. Lời cầu nguyện ấy phải dành cho mọi người như lời cầu nguyện của ông
Áp-ra-ham và kinh Lạy Cha mà Chúa Giê su dạy các môn đệ.
8. HỎI: Bài đọc 2 (Cl 2,12-14) có nội dung như thế
nào?
THƯA: Thánh
Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội: không những tha thứ mọi tội
lỗi trước đây của chúng ta mà còn giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu
hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô.
9. HỎI: Ngữ
cảnh bài Tin mừng (Lc 11,1-13) như thế
nào?
THƯA: Sau lời kinh Chúa Giêsu
dâng lên Chúa Cha (Lc 10,21-22), dụ
ngôn về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và giáo huấn về việc lắng
nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10, 38-42), Chúa Giê su dạy các môn đệ cầu
nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Có hai ý: 1. Chúa Giê su dạy kinh Lạy Cha (11,1-4).
2. Hai dụ ngôn về cầu nguyện (5-13).
10. HỎI: Tại
sao lời cầu nguyện tuyệt hảo của các Kitô hữu là ‘Kinh Lạy Cha’?
THƯA: Được gọi là ‘Kinh Lạy
Cha’ vì lời kinh bắt đầu bằng lời ‘Lạy Cha chúng con’. Đó là lời kinh tuyệt hảo
vì là ‘Kinh của Chúa dạy’. Theo Tin mừng Luca 11,1, lời kinh ấy đã được chính
Chúa Giêsu dạy cho các môn đồ. Sau khi đã chứng kiến Ngài cầu nguyện, các môn đồ
đã xin Ngài dạy họ cầu nguyện như Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ của ông.
11. HỎI: Về
kinh Lạy Cha, đâu là sự khác biệt giữa Mát thêu và Lu ca?
THƯA: Bản kinh trong Tin mừng thánh Lu ca ngắn hơn bản kinh
trong Tin mừng thánh Mát thêu. Đó là hai bản kinh được sử dụng trong các cộng
đoàn Ki tô hữu tiên khởi khác nhau. Lúc bấy giờ, người ta quan tâm đến việc làm
sao trung thành với ý muốn của Chúa Giê su hơn là tìm cách đọc lại đúng từng chữ
trong lời kinh Chúa dạy.
12. HỎI:
Trong Kinh Lạy Cha có bao nhiêu lời cầu xin?
THƯA: Trong Kinh Lạy Cha có bảy
lời cầu xin, đi sau lời mở đầu. Ba lời đầu tiên hướng tới Thiên Chúa, còn bốn lời
sau hướng về con người.
13. HỎI: Tại
sao có hai chiều kích ấy?
THƯA: Cuộc sống người Ki tô hữu
được thực hiện qua những tương quan chiều đứng với Thiên Chúa và chiều ngang với
người khác. Bỏ qua một trong hai tương quan ấy, con người đánh mất sự quân bình
và duy nhất cần thiết của mình.
14. HỎI: Lời
mở đầu: ‘Lạy Cha’ có nghĩa gì?
THƯA: Gọi Thiên Chúa là Cha tóm
tắt toàn bộ mạc khải mà Chúa Giê su mang đến cho con người. Thiên Chúa đấng
toàn năng, tạo dựng trời đất muôn vật không phải là một Vị Thần dùng sức mạnh
áp chế con người, mà là một Thiên Chúa yêu thương, muốn cứu chuộc loài người bằng
tình yêu thương.
15. HỎI: Tại
sao chúng ta có thể nói rằng chúng ta là con của Thiên Chúa?
THƯA: Chúng ta là con cái Thiên
Chúa vì: 1. Người đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Người, gìn giữ và cai trị
chúng ta bằng tình yêu quan phòng của Người; 2. Người đã nhận chúng ta là nghĩa
tử, là em của Chúa Kitô và cùng thừa kế với Ngài trong Vinh quang vĩnh cửu, qua
bí tích rửa tội. Ngoài ra, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha chúng ta, chứ không
là Cha tôi, bởi vì tất cả chúng ta đều là con của một Cha trên trời, và vì vậy
chúng ta phải quan tâm đến tất cả và yêu thương nhau như anh em và cầu nguyện
cho nhau.
16. HỎI:
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, tại sao chúng ta cầu nguyện: ‘Lạy Cha chúng con, đấng
ngự trên trời?’ (theo Thánh Mát thêu, và kinh thường đọc)
THƯA: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi,
nhưng chúng ta cầu nguyện: ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời’, là để nâng tâm hồn
chúng ta lên thiên quốc (hình ảnh của những gì vượt qua chúng ta), nơi mà Thiên
Chúa tỏ mình ra trong vinh quang cho con cái Người. Đàng khác, Thánh Mát thêu
thích diễn tả Thiên Chúa là ‘Đấng ngự trên trời’. Lu ca thì không như thế.
17. HỎI: ‘Nguyện Danh vinh
hiển’ có nghĩa gì?
THƯA: Trong Kinh Thánh, ‘tên’ tức
là người. Nói rằng Thiên Chúa là ‘thánh’ có nghĩa là Người trổi vượt trên tất cả
mọi sự, chúng ta không thể thêm gì vào Mầu nhiệm Người cả. Vì thế xin cho Danh
Người được vinh hiển có nghĩa là ‘xin Người tỏ ra cho mọi người biết là Thiên
Chúa’.
18. HỎI: ‘Triều đại Cha
mau đến’ có nghĩa gì?
THƯA: Lời cầu xin nầy giống như
lời cầu xin thứ nhất, được diễn tả theo lời rao giảng của Chúa Giê su. Ngài đã
đến trần gian rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa đang hiện diện. Ngài đã hiến
mạng sống để qui tụ tất cả mọi người trong một dân tộc. Chúng ta cầu xin cho mọi
người được gia nhập Vương quốc ấy bằng cách lãnh nhận ơn Cứu độ Ngài ban cho.
19. HỎI: ‘Xin Cha cho
chúng con lương thực hằng ngày’có nghĩa gì?
THƯA: Chúng ta xin Chúa ban cho
chúng ta lương thực cần dùng trong mỗi ngày sống. Thời xuất hành, man-na rơi xuống
mỗi ngày trong sa mạc dạy dân Chúa hằng ngày tin tường vào sự quan phòng của
Người (Xh 16). Vì thế lời cầu ấy mời gọi chúng ta đừng lo lắng cho ngày mai
nhưng hãy lãnh nhận mỗi ngày lương thực cần dùng như là quà tặng của Thiên
Chúa, và chia sẻ mối quan tâm Thiên Chúa nuôi dưỡng con cái mình…
20. HỎI: ‘Xin tha tội cho
chúng con…’ có nghĩa gì’?
THƯA:
Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban ơn, tự hiến mà còn tha
thứ nữa. Tội lỗi đã đặt giữa Thiên Chúa và con người một chướng ngại mà chỉ Người
mới có thể cất đi bằng lòng thương xót vô biên của Người. Và để hưởng được lòng
thương xót ấy, chúng ta cần phải biết tha thứ cho anh em mình. Ai biết hòa giải
với anh em mình, người ấy mới sẵn sàng được lãnh nhận ơn hòa giải với Thiên
Chúa.
21. HỎI:
‘Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ’ có nghĩa gì?
THƯA: Thiên Chúa không bao giờ
cám dỗ ai cả, nhưng luôn luôn tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người, và do
đó chấp nhận con người bị nguy cơ cám dỗ và thua cuộc. Chúa Giê su làm người,
trước những chọn lựa quyết định cũng đã phải trải qua những cơn thử thách,
nhưng đó là cơ hội tốt để đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Cha.
22. HỎI:
Trong dụ ngôn ‘người bạn bị quấy rầy’, Chúa Giê su muốn dạy điều gì?
THƯA: Chúa
Giê su minh họa giáo huấn về cầu nguyện của Ngài bằng cách kể dụ ngôn ‘người bạn
bị quấy rầy’. Cầu nguyện với Thiên Chúa cần phải kiên trì. Chính Chúa Giê su đã
từng cầu nguyện liên lỉ trong suốt cuộc sống của Ngài: suốt 40 ngày trong sa mạc,
suốt đêm trong đời sứ vụ công khai, và hằng giờ trước khi bị bắt.
23. HỎI: Tại
sao phải kiên trì cầu nguyện?
THƯA: Vì Thiên Chúa là Đấng vô
cùng tốt lành, hơn hết mọi người Cha trần gian. Không những Người ban những gì
người ta cầu xin, mà còn sẽ ban tất cả những gì cần thiết cho họ.
24. HỎI: Ơn
ban quí giá nhất của Thiên Chúa là gì?
THƯA: Đó là ơn ban Thánh Thần.
Thánh Thần là Đấng soi sáng cho chúng ta được biết đâu là thánh ý Thiên Chúa,
hướng dẫn chúng ta trong đức tin, dạy chúng ta sống phù hợp với thánh ý Thiên
Chúa, và ban sức mạnh để chúng ta hướng dẫn và soi sáng người khác.
25. HỎI: Thực thi sứ điệp Lời Chúa như thế
nào?
THƯA: Lời Chúa hôm nay mời gọi
hãy:
1. Cầu xin cho ‘Danh Thánh Cha vinh hiển, Triều Đại
cha mau đến’ và mọi nhu cầu khác như Kinh Chúa dạy.
2.
Tín thác và kiên trì trong khi cầu nguyện.
GLCG 2764
(1965, 1969) Với Bài Giảng Trên Núi, Chúa
Giê-su dạy ta sống, với kinh Lạy Cha, Người dạy ta cầu nguyện. Trong cả hai, Thần Khí của Chúa Giê-su đem lại khuôn mẫu mới cho những
ước muốn là những tâm tình tác động đến cách sống của ta. Chúa Giê-su
dùng lời nói để dạy ta phải sống cuộc đời mới và dùng lời kinh xin Chúa Cha ban
ơn giúp ta sống như vậy. Khi cầu nguyện đúng, chúng ta sẽ biết
sống trong Chúa. (X. Cha và bẩy lời cầu trong Kinh Lạy Cha 2777-2785.
2803-2806. Ki tô hữu cầu nguyện là để cộng tác với chương trình yêu thương quan
phòng của Thiên Chúa 2738. Đời sống cầu nguyện 2697-2699).