CHỦ NHẬT 30 THƯỜNG
NIÊN B
Đâu là con đường Đức Tin? Trước tiên đó là nhận thức sự khó nghèo và bần cùng của mình. Sự nhận thức ấy mở ra ước muốn gặp gỡ Đấng có thể lấp đầy mọi
khoảng trống. Đấng đó là Chúa
Giê su, Ngài sẽ đến và hiện
diện trong cuộc sống chúng ta. Rồi
chúng ta còn cần phải chiến đấu chống lại sự thống trị của môi trường
chung quanh, của thếgiới tội lỗi đang tìm mọi cách để lôi kéo chúng ta xa lìa con đường mà chúng ta đã
chọn lựa.
Sách Tiên tri Giê rê mia:
Trong những lời sấm an ủi, Giê-rê-mi-a bảy tỏ niềm hân hoan trước ơn Cứu độ mà Thiên Chúa
đã dọn sẵn cho Dân Người đang lâm cơn nguy biến, vì bị lưu đày. Trước lòng thống hối của họ, Thiên Chúa
tha thứ và muốn gọi họ trở về đất hứa. Thiên
Chúa vẫn luôn luôn trung thành với Giao Ước của Người: tất đều được mời gọi hưởng niềm Vui.
Thánh vịnh 125:
Thánh vịnh nầy được xếp vào lọai ‘Thánh vịnh lên
đền’, được hát lên khi các đoàn hành hương trẩy hội tiến về Giê ru sa lem vào những dịp lễ lớn. Thánh vịnh nầy tưởng nhớ cuộc Trở về của những người bị lưu đày.
Thư Do thái:
Bản văn chúng ta đọc hôm nay dường như không nằm trong đường hướng ý tưởng các bản băn
Phụng vụ khác. Nó cho
thấy chức thượng tếĐức Ki tô khác hẳn với chức tư tế của các Thầy Lê
vi như thế nào, dù cả hai đều thi hành một chức năng như nhau: là Thượng tế, tức là trởthành người trung
gian, chiếc cầu nối giữa Thiên Chúa và con người.Đức Ki tô đã thực hiện một
cách mĩ mãn sứ vụ của mình khi
trở thành nơi gặp gỡ quyết định giữa Thiên Chúa và loài người trong chính bản thân.
Tin mừng: Mc 10,46b-52
NGỮ CẢNH
Cùng với trình thuật phép lạ chữa lành người mù Giê-ri-khô nầy, Mác cô kết thúc
phân đoạn trung tâm sách Tin Mừng bắt đầu từ 8,27 đến 10,52 và khởi đầu một phân đoạn mới.
Mở đầu bằng câu
46, Mác cô nói rằng khi ra khỏi thành Giêrikhô, có các môn đệ và một đám đông đi theo Chúa Giê su. Rồi ở câu 52 kết
thúc, tác giả cho biết anh mù
khi được sáng mắt, đã “đi theo Ngài trên con đường Ngài đi”. Do vậy, trình
thuật nầy đề cao việc người
môn đệđi theo Chúa Giê su. Anh mù được sáng mắt trở thành người môn
đệmẫu mực, và phép lạ đã thực hiện
một sự thay đổi nền
tảng nơi người muốn thực sự đi theo Chúa
Giê su.
TÌM HIỂU
Đến thành Giê-ri-khô: cả ba tin mừng nhất lãm đều có nhắc tới chặng dừng
chân ở Giêrikhô trên
hành trình tiến về Giêrusalem.
Theo lịch trình của Mác cô thì Chúa Giê su và nhóm Mười hai từ bờ bên kia sông
Giorđanô đến đó (10,1). Trong khi Mác cô đặt trình thuật nầy vào lúc Chúa Giê
su vừa đến Giêrikhô, thì Mát thêu đặt phép lạ khi Chúa Giê su và nhóm môn đệ ra khỏi thành Giêrikhô.
Ba-ti-mê: Khác với các tác giả khác, Mác cô cho biết tên và nghềnghiệp của người
mù.
Con Vua Đa vít: đây là tước hiệu Thiên sai bình
dân gán cho Chúa Giê su báo trước lời tung hô của quần chúng khi Người vinh
hiển tiến vào thành Giêrusalem (Mc 11,10). Đây là lần đầu tiên Chúa Giê su được gọi là Con Vua Đa vít trong Mác cô, là tin mừng không chép
lại gia phả của Chúa Giê
su, cũng không nói đến Bết lê hem, kinh thành của Vua Đa vít nơi Người giáng sinh.
Nhiều người: chúng ta nên chú ý đến tính cách rất
linh động, nhiều màu sắc trong trình thuật (đám đông người chung quanh, tiếng
kêu lặp lại nhiều lần của Batimê, ngưòi mù quẳng chiếc áo choàng của mình và
chạy đến Chúa Giê su), như vẫn thường thấy
trong nhiều trình thuật của Mác cô (đặc biệt x. 5,21-43; 9,14-27).
Người ta gọi anh mù: câu 49 và 50 đặc biệt của Mác
cô, tạo cho trình thuật một hoạt cảnh sống động như thật.
Thưa Thầy (Rabbôni): cách gọi nầy đặc biệt trong
Mác cô mới có (Mt và Lc chỉ có cách gọi: Lạy Thầy) (x. Mc thích để nguyên ngữ Aram: 5,41; 7,34). Tiếng ấy có nghĩa là Thầy ơi giống như Rabbi (9,5) nhưng có vẻ thân mật hơn. Gioan thì đặt lời nầy trong miệng
của Maria Mađalêna khi nhận ra Chúa phục sinh (Ga 20,16).
Lòng tin của anh đã cứu anh!: ngoại trừ ở đây, kiểu nói
chỉ xuất hiệntrong Mc thêm một lần nữa ở 5,34. Nhờ vào lòng tin của mình, Batimê được chữa lành và
được cứu độ ngay tức khắc.
Tức khắc: kiểu nói Mác cô ưa dùng (x: 1,12.20; 2.12; 5,30) làm nổi bật
quyền năng chữa bệnh siêu phàm của Chúa Giê su (so với trường hợp chữa lành không xảy ra tức thì được kể lại trong 8,22-26).
Đi theo Người trên con đường Người đi: Anh mù nhận
ra Chúa Giê su như là Con Vua Đa vít, lấy lại thị giác và ngay liền đó đi theo Người như một người môn đệ (1,18;2,14). Con đường là một chủ đề đặc biệtxuyên
suốt đoạn 8,22-10,52. Xem 8,27; 9,33; vv..
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay rất quen thuộc đến nỗi gần
như ai cũng thuộc lòng. Nhưng nếu đọc như một câu truyện bình thường, chúng ta dễdàng bỏ qua điều cốt yếu. Thật vậy, nó chứa đựng một tin
mừng cho mọi người chúng ta hôm nay, và mời gọi mọi người phải khám phá. Thánh
Mác cô nói với chúng ta về một người hành
khất mù lòa ngồi bên vệ đường dẫn ra
thành Giê-ri-cô. Anh ta ngồi im bất động tránh xa những người qua đường. Sự tàn tật của anh đã lấy khỏi anh hạnh phúc đích
thực. Trong cảnh cô đơn cùng cực ấy anh đã cố kêu cứu với
Chúa Giê su: “Lạy Chúa Giêsu, con vua Đa vít, xin thương xót tôi”.
Bartimê là một trong những người may mắn được Chúa
Giê su cứu chữa. Nhưng mỗi người trong chúng ta có thể đặt câu hỏi: Một người mù được Chúa Giê su chữa
lành cách đây 20 thế kỉ thì tốt cho anh ta, chứ có liên can gì đến tôi đâu! Ngày nào, truyền hình cũng chuyển đến cho
chúng ta những hình ảnh thời sự buồn thảm. Chưa đủ hay sao mà tin mừng hôm nay còn nói với chúng ta về một cuộc đời bất hạnh như thế! Người ta tự hỏi nếu chọn những vấn đền thực tế hơn với đời sống chúng ta có tốt hơn không?
Thế mà Lời Chúa lại muốn chúng ta lắng nghe thì sao? Bartimê,
chính là hiện thân nơi mỗi người chúng ta. Người mù, là chính chúng ta. Biết
bao lần chúng ta mù lòa trước các dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa, như một nụ cười, một tình thân ái.
Rồi bản thân chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta có cảm tưởng: “Tôi không
biết mình đang ở đâu. Tôi đang mất phương hướng. Tôi không còn thấy
rõ nữa. Có nhiều người tôi không muốn thấy mặt, như gia đình hay một người lân cận nào đó. Vậy là rõ ràng có nhiều điều khiến chúng ta mù lòa trong
cuộc sống.
Tin mừng cho biết, người mù cũng là người ăn xin. Và người ăn xin cũng là mỗi người trong chúng ta. Hoặc đúng hơn, chúng
ta phải là người ăn xin. Đây không phải là chìa tay xin của bố thí. Kiểu ăn xin mà chúng ta phải mơ ước là mở rộng tâm hồn và
sẵn sàng đưa tay về phía Thiên Chúa
để khỏi phải cam chịu kiếp sống mù lòa. Đó là kiểu ăn xin các mối phúc mà chúng ta đã nghe trong lễ Các Thánh: Phúc cho những ai nghèo khó trong tâm
hồn, những ai hòan tòan hướng về phía Chúa và rộng mở trước tình yêu phong phú của Người. Những người đó sẽ được no thỏa.
Những người chung quanh to nhỏ với nhau thế nào mà Ba-ti-mê đã nghe được, và anh biết Đức Giê su Nagiarét sắp đi ngang qua đó. Ngày hôm
nay cũng thế, Chúa Giê-su cũng còn đi ngang qua trên các nẻo đường chúng ta đi.
Chúng ta nghe tiếng bước chân Ngài nhưng không nhìn thấy Ngài. Ngài hiện diện
nơi Ngài được loan báo, ở mọi nơi người ta họp nhau để cầu nguyện, để lắng nghe và nói về Ngài.
Tiếc thay, nhiều khi chúng ta bỏ lở cơ hội gặp Ngài. Có thể vì hờ hửng, nhưng
cũng có thể vì thiếu quan
tâm. Như trong tin mừng
hôm nay, có thể có những người
bàn ra và làm cho chúng ta nản lòng, họ nói với chúng ta rằng đức tin vào Chúa Giê su Ki tô không còn
cần thiết nữa. Nhiều khi chính thái độ và lời nói của chúng ta cũng cản trở những người tìm kiếm Chúa.
Bất chấp tất cả những khó khăn đó, Ba-ti-mê vất áo choàng, hớn hởchạy đến quì
dưới chân Chúa Giê-su, và tin tưởng kêu lên: “Lạy Chúa, xin làm cho con được
thấy!”. Thỉnh thoảng chúng ta không biết làm thế nào để cầu nguyện, dù
là rất đơn giản. Chỉ cần theo gương
Ba-ti-mê, nói với Chúa ước muốn được
thấy, ước muốn nhìn thấy thực tại thế gian qua ánh sáng tin mừng, ước muốn được thấy những thực tại của cuộc sống
như Thiên Chúa thấy, ước muốn thấy những người chung quanh chúng ta với cái nhìn
của chính Chúa Giê su. Vâng, lạy Chúa, xin làm cho con được trông thấy!
Rồi chúng ta nghe Chúa Giê su nói: “Hãy đi, đức
tin con đã cứu con!”. Ba-ti-mê được Chúa Giê-su chữa lành. Thay vì bình an quay trở về nhà mình, anh
ta lên đường theo Chúa Giê su. Điều đó có
nghĩa là không những anh được chữa lành mà còn được cứu độ nữa. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giê su đã mang lại một ý nghĩa mới cho đời sống của
anh. Khi gặp Đức Ki tô và
nhận ra tình yêu của Ngài,
người ta không có thể làm gì khác hơn
là đi theo Ngài. Cuộc gặp gỡ ấy đưa chúng ta
đến tiếp xúc với Thiên Chúa Cha. Và chính nhờ Chúa Giê su mà chúng ta đến cùng Cha, vì Ngài là đường và ánh
sáng của chúng ta.
Tin mừng của Chủ nhật hôm nay là ơn cứu độ được hoàn thành
trong Chúa Giê su Ki tô, và hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa. Cũng nhưđối
với Ba-ti-mê, chúng ta chỉ cần đứng dậy
gặp Ngài đang đến. Ơn cứu độ được thực hiện một lần, nhưng Thiên Chúa không
muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Ngài ban cho chúng ta vinh dự được cộng tác với Ngài. Trong Tiệc Thánh Thể,
chúng ta gặp gỡ Chúa Giê su tự hiến ban cho tất cả mọi người. Khi ban cho chúng ta cuộc sống nhân loại và thần
linh, Ngài chữa lành chúng ta khỏi tội lỗi khiến chúng ta mù lòa. Vả cũng như Ba-ti-mê, chúng ta có thể đi theo Ngài trong cuộc sống hằng ngày và làm chứng cho niềm
hi vọng đang linh hoạt chúng ta nơi những người sống chung quanh.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Tiên tri Giê-rê-mi-a là ai?
THƯA: Năm thứ 13 đời vua
Giô-si-gia (625 tr. CN) sau I-sai-a gần một thế kỷ, Giê-rê-mi-a
được Thiên Chúa gọi làm tiên tri cho
Ngài. Ông sinh ra ở A-na-tốt, gần
Giê-ru-sa-lem trong một gia đình tư tế. Thuở thiếu thời, ông
sống trong thời đại khủng hoảng trầm trọng vềtôn giáo dưới triều vua Ma-na-sê. Tình trạng sùng bái mẫu tượng đang lan tràn khắp
vương quốc kể cả trong Đền Thờ. Giuđa đang cần một vịtiên tri can đảm để kêu gọi dân chúng trở lại. Và Giê-rê-mi-a được giao phó thi hành sứ vụ khó khăn ấy.
2. HỎI: Bài đọc thứ nhất nói về điều gì?
THƯA: Bài đọc là lời sấm an ủi tiên tri Giê-rê-mi-a gởi đến dân It-ra-ên đang bị lưu đày ở Babylon đang
mất dần niềm hi vọng vào Thiên Chúa vì phải đối đầu với bao nỗi thống khổ nơi đất khách quê người. Tiên tri an ủi họ, củng cố niềm tin của họ và mời gọi họ hãy vui lên vì
ngày trở về quê hương đã gần. Đó sẽ là ngày hội lớn vì Thiên Chúa là Cha sẽ qui tụ mọi con cái
It-ra-ên tản mát khắp nơi về.
3. HỎI: Tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bối cảnh nào?
THƯA: Tiên tri tuyên sấm trong hoàn cảnh hết sức bi đát mà dân Ít ra
ên đang phải trải qua. Họ đang trên bờ tuyệt vọng trong nỗi đau mất nước, lưu đày và nô
lệ. Và điều tệ hại hơn cả là họ tưởng rằng Thiên Chúa của họ đã làm ngơ, nhắm mắt và bỏ rơi họ trong tayquân
thù.
4. HỎI:Tiên tri đã làm gì để an ủi họ?
THƯA: Tiên tri Giê rê mia cũng như các tiên tri khác, có hai cách đểnói với dân: vào những giai
đoạn dân lơ là bất trung
đối với Lề luật, ông dùng
những lời lẽ nghiêm khắc để mời gọi họ hoán cải trở về với Thiên
Chúa.Ông còn lớn tiếng hăm dọa và tiên báo tại họa sắp ập xuống. Trái
lại vào những giờ phút bất hạnh,
lưu đày, ông lên tiếng trấn an, đem lại niềm hi vọng, nhắc nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏrơi dân Ngài dù họ có làm điều gì đi nữa.
5. HỎI: Trong hoàn cảnh hiệntại, Tiên tri đã nói
gì?
THƯA: Trước tình thế đang rất thất
vọng, ông mời gọi họ hãy ‘Reo vui
lên mừng Gia-cóp’ (c.7), và từ đáy thẳm nhục nhã ê chề mà dân phải chịu đựng, ông gọi Gia cóp (tức là dân Ít ra ên)
là dân đứng đầu các dân tộc. Không phải ông thích nói ngược, nhưng đó chính là
tiếng kêu của lòng tin.
6. HỎI: Tại sao đó là tiếng kêu của lòng tin?
THƯA: Vì chính trong đêm tối mà người ta cần phải tin mãnh liệt rằng
ánh sáng sẽ xuất hiện. Và
trong trường hợp đó, tiên tri là người đầu tiên nhận ra tia sáng le lói của hừng đông. Và để cho dân tiếp nhận tin mừng ấy, ông đã long trọng tuyên sấm: ‘Đức Chúa phán’
một cách để nói rằng, tôi
không tự mình mà nói,
nhưng chính Thiên Chúa hứa với anh em.
7. HỎI: Tai ương mà tiên tri nói tới là tai ương nào?
THƯA: Đó chính là cuộc Lưu đày mà dân Ít ra ên phải chịu sau khi
thất trận trước các đạo quân hùng mạnh Át si ri: đợt đầu vào năm 587 và đợt thứ hai vào năm 538 tr CN.
8. HỎI: Sứ điệp đầy hy vọng gồm những gì?
THƯA: Để chống lại sự thất vọng của đồng bào mình, tiên tri loan báo ngày trở về cố hương sắp diễn ra: ‘Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất’ (31,8).Ngày trở về hoàn toàn khác
xa với ngày ra đi lưu đày: ‘Chúng ra đi, nước mắt tuôn rơi, ngày trở về tràn đầy niềm
an ủi’ (31,9). Lúc ra đi, là một đoàn dân thất trận,
nhục nhã, lúc trở về, một dân tộc
hiên ngang gồm cả những người yếu
nhất: ‘Trong chúng, có kẻ đui, người què,
kẻ mang thai, người ởcữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.’
9. HỎI: Ngoài niềm vui ngày trở về, còn niềm vui nào khác nữa không?
THƯA: Có. Niềm vui được đoàn tụ thành một dân tộc thống nhất. Không còn cảnh nam bắc phân tranh, một phía là nhà Giu đa, một phía là Ít ra ên. Nhưng khi trở về, đoàn dân sẽ được qui tụ thống nhất
thành một dân duy nhất của
Thiên Chúa.
10. HỎI:Tại sao Thiên Chúa lại hành xử như thế?
THƯA: Vì: ‘đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta,
Ép-ra-im chính là con trưởng’ (31,9). Người ta ngại nói đến Thiên Chúa là Cha
vì dân ngoại cũng coi thần linh là Cha theo nghĩa nhân loại. Trái lại, trong Ít
ra ên, Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn
khác biệt, và tình phụtử của Ngài cũng
thuộc vào trật tự khác. Trước
ông, có lẽ tiên tri Hô sê
là người đầu tiên vào khoảng thế kỉ 8 tr. CN nói
đến Thiên Chúa là Cha (Hs 11,1.4). Vì thế chính từ giữa thử thách mà lòng tin của Ít ra ên đã tiến lên phía
trước.
11. HỎI: Bài đọc một liên kết với bài tin mừngnhư thế nào?
THƯA: Bài đọc một tiên tri loan báo thời khắc hạnh phúc: ‘ĐỨC CHÚA
đã cứu dân Người, số còn sót lại của
Ít-ra-en! ...Trong chúng, có kẻ đui, người
què.. ‘(Gr 31,7-9). Lời tiên báo ấy đã được thực hiện trong bài tin mừng.
12. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Chúa Giê su và các môn đệ đang ở chặng chót trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba (10,32-34), Ngài dạy họ bài học phục vụ (41-45) khi nghe lời của hai con ông Giê-bê-đê xin được chỉa
sẻ vinh quang (35-40). Sau đó, Ngài và các môn đệ rời thành Giê-ri-khô trực chỉ lên Giê-ru-sa-lem. Trên đường, các ngài đã gặp người mù.
13. HỎI:Thành Giê-ri-khô ở đâu?
THƯA:Thành Giê-ri-khô ở cách Giê-ru-sa-lem 25 km về phía đông bắc và cách sông Gióc-đa-nô 8 km. Đây là thành phố lưu lại nhiều dấuấn đậm
nét trong lịch sử Ít-ra-ên,
đặcbiệt là thành đầu tiên thuộc vềdân Ít ra ên trên đường chinh phục đất hứasau
khi vượt qua sống Gio-đan (Gs 3,1-17).
14. HỎI: Việc đề cập đến tên của người mù và cha của anh ta có ý
nghĩa gì không?
THƯA: Có. Việc Mác cô sau nhiều năm vẫn còn nhớ rõ tên của họcho thấy rằng sau cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê su, họ trởthành nhân vật danh tiếng nhất định trong cộng
đồng Kitô hữu non trẻ. Thật hợp lý để nghĩ rằng những ai
đã nhận được một phép lạ chữa lành từ Chúa Giêsu và sau đó gia nhập vào Kitô giáo,
thường được mời làm chứng về kinh nghiệm mãnh liệt và kỳ diệu của họ về Chúa Kitô.
15. HỎI: Tại sao Ba-ti-mê kêu lớn: “Lạy Con Vua Đa-vít..” ?
THƯA: Ông kêu lên như thế vì nhận ra Chúa
Giêsu là Đấng Cứu độ, thuộc dòng dõi Đavít, và tuyên xưng niềm tin ấy bằng một tước hiệu Ki tô là Con Vua Đa vít. Như thế, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu được gọi là với danh hiệu
thiên sai và lần đầu tiên từ một người không
phải là ông Phê-rô.
16. HỎI: Tại sao đám đông của những người theo Chúa Giêsu quát người mù bảo anh
ta im đi?
THƯA: Bởi vì đối với người Do Thái, mù lòa bị coi là sự chúc dữ của Thiên Chúa
nên họ không cho phép
người mù có một liên lạc nào với Chúa Giê su, dù là bằng tiếng kêu lớn từ đằng xa. Cũng có thể theo một số người đi theo Chúa Giêsu, sự hiện diện của một kẻ mù ăn xin, kẻ bị Thiên Chúa
nguyền rủa sẽ phá hỏng cuộc
khải hoàn của Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem.
17. HỎI: Câu: “Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng
phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” có ý nghĩa gì?
THƯA: Câu ấy không chỉ mô tả phản ứng mừng rỡ của anh mù vửa được Chúa Giê su cho gọi anh ta đến. Thánh Mác
cô còn muốn truyền cho chúng ta một thông điệp sâu sắc hơn. Đối với anh ta, một người mù và là một người nghèo,
chiếc áo khoác là tất cả gia tài, là tài
sản quí giá nhất mà anh ta có. Do đó, hình ảnh ấy mô tả một người bỏ lại tất cả tài sản, tất cả những gì bảo đảm cho cuộc sống để vui mừng và quảng đại (nhảy) phó thác cho Chúa
Giêsu
18. HỎI: Chắc chắn Chúa Giêsu đã biết anh mù muốn gì, tại sao Ngài còn hỏi: “Anh muốn ta làm gì cho anh?”?
THƯA: Chắc chắn là Chúa Giêsu đã biết điều mà anh mù muốn xin Ngài.
Nhưng Ngài vẫn hỏi để tìm cách gợi
lên đức tin của anh ta. Ngài muốn có một tương quan mật thiết với những người
theo Ngài. Ngoài ra, Ngài cũng cố gắng hướng sự khổ đau của anh ta
đến một kinh nghiệm của đức tin, biến đổi những đau đớn về thể chất hoặc tinh thần thành một giá trị, một nhân đức có thể giúp thực hiện cuộc sống cá nhân theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa
19. HỎI: Chúa Giêsu nói: “Hãy đi, lòng tin của anh đã cứu
anh”, tại sao Ngài không nói "lòng tin đã chữa lành anh?”?
THƯA: Bởi vì khi dùng thuật ngữ “cứu chữa” Chúa Giêsu muốn cho Ba-ti-mê hiểu rằng anh không
chỉ đã nhận được sự chữa trị về thể xác, mà còn nhận được sự cứu độ thiêng liêng
giúp anh trở thành một môn
đệ của Vương quốc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã không bảo
anh hãy trở vềnhà như đối với anh mù Bết-sai-đa, nhưng cho phép anh đi
theo Ngài (“và anh đã đi theo Ngài trên đường Ngài đi”).
20. HỎI: Tại sao lần nầy Chúa Giê su không bảo người mù phải giữ im lặng về Ngài?
THƯA: Lần trước, Chúa Giê su chữa lành người mù ở Bết-sai-đa (c.
8), và dặn anh ta đừng nói với ai. Nhưng lần nầy, thì không có lời dặn đó. Giờ đây, ở lối vào thành
Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê chấp nhận cho người ta nhận ra Ngài là đấng Messia. Phép lạ chữa người mù là một bằng chứng cho thấy Ngài
chính là Đấng Messia mà
tiên tri Isaia đã loan báo về người Tôi tớ của Thiên Chúa (Is 42,6-7). Vì thế, mọi sự đã rõ ràng, không còn cần phải giữ bí mật về căn tính của Ngài nữa.
21. HỎI: Bài đọc hai có nội dung như thế nào?
THƯA: Chúa Giê-su Ki-tô, Vị Thượng Tế siêu phàm được
Thiên Chúa đặt làm thượng tế từ muôn đời muôn thưởvì Ngài là đấng trung gian, biết cảm thông và chia sẻ sự yếu đuối của
loài người.
21. HỎI: Phải sống sứ điệp tin mừng như thế nào?
THƯA: Ðể thực hiện sứ điệp của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm
xem tình trạng tâm linh của chúng ta hiện ra sao?
- Nếu chúng ta không còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi và bước theo chân Người
thì chúng ta phải chạy đến với Chúa để xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta.
- Nếu chúng ta còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi thì hãy nhạy bén trước
tiếng gọi của Chúa và mau mắn đáp lại tiếng
gọi ấy mà gia nhập hàng ngũ những kẻ đi theo Chúa.