SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN
LỄ CHÚA BA NGÔI A
Xh 34,4b-6.8-9; 2 Cr 13,11-13 ; Ga 3,16-18
SỐNG YÊU
THƯƠNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA BA NGÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 3,16-18
(16) Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai
Con Một của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào
Con của Người, thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án
rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trích trong cuộc đàm thoại ban đêm
giữa Đức Giê-su với Ni-cô-đê-mô về ơn tái sinh. Sau khi cho ông biết
điều kiện để được cứu độ là phải tái sinh bởi nước và Thánh Thần,
Đức Giê-su đã mặc khải về tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã cứu
độ thế gian bằng cách sai Con Một của Người xuống trần để chịu chết
đền tội thay cho thế gian (14-16). Ai tin vào Người Con ấy mới được ơn
cứu độ (17-18).
3. CHÚ THÍCH:
- C 16: + Thiên Chúa đã yêu: Đây là một chân lý mặc khải mới mẻ, vì truyền thống Do thái
trước đó chỉ nói đến Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en là con dân của
Người, chứ không nói đến việc Người còn yêu cả thế gian, không phân biệt
chủng tộc, quốc gia, màu da hay tiếng nói nữa. + Thế gian: chỉ chung
toàn thể vũ trụ mà nhân loại là thành phần quan trọng nhất. Thế gian
trong câu này ám chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương (x. Ga 3,16),
nhưng ở câu khác lại ám chỉ bọn đầu mục dân Do thái là những kẻ luôn
thù ghét Đức Giê-su (x. Ga 12,31; 1 Ga 2,16-17). + Con Một của Người: Trong
kinh tin kính, Giáo Hội dạy các tín hữu tuyên xưng đức tin “tôi tin
kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ
trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh
sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải
được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha (x. 2 Sm 7,12-16; Mt
3,13-17). Như vậy Đức Giê-su có hai bản tính: Một là tính Thiên Chúa
và hai là tính loài người, nhưng Người chỉ có một Ngôi Vị là Ngôi Con
hay Ngôi Lời. Việc ban Con Một để cứu độ thế gian là dấu chứng rõ
ràng nhất biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với thế gian
(x. 1 Ga 4,9-10). + Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết: Niềm tin
vào Ngôi Con là điều kiện cần để được hưởng ơn cứu độ và được sống
muôn đời.
- C 17: + Không phải để lên án thế gian: Sứ mệnh của Con Thiên Chúa đến thế gian không phải để kết án
nhưng để cứu chuộc thế gian (x. 1 Ga 4,14). + Tại sao nơi khác Đức Giê-su
lại phán: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không
xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39) ?:
Thực ra điều Thiên Chúa muốn là sai Con Một đến để ban ơn cứu độ cho
thế gian. Nhưng thế gian có nhận được ơn cứu độ đó hay không tùy theo
thái độ đáp trả của họ là tin nhận hay từ chối Người. Chính sự lựa
chọn này làm nên việc xét xử: Tin nhận Chúa Giê-su thì được cứu,
nghĩa là được ơn tha tội, được giao hòa với Chúa Cha và được sống
muôn đời, giống như: người mù dù không nhìn thấy, thì giờ đây lại
được xem thấy. Còn nếu từ chối Chúa Giê-su là đã tự lên án chính
mình, tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Chúa Giê-su, như các đầu mục
Do thái, tuy sáng mắt nhưng vì cứng lòng không tin Đấng Thiên Sai, nên
đã tự hóa nên mù tối.
- C 18: + Ai tin vào Con của Người thì không
bị kết án: Tin ở đây không phải
chỉ bằng lời nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa !”, nhưng bằng việc làm theo
thánh ý Chúa, biểu lộ qua sự thực hành lời Chúa dạy” (x. Mt
7,21.24). Thánh Phao-lô cũng nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su
là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại
từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong
lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu
độ… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (x.
Rm 10,9-10.13). + Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi: Sứ mệnh của
Đức Giê-su là ban sự sống, ban ơn cứu độ cho những ai tin Người. Ai cố
tình không chấp nhận Ngôi Lời Nhập Thể, tức là không tin vào Danh Con
Một Thiên Chúa (x Ga 6,64), là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ,
đồng nghĩa với việc tự kết án chính mình. + Vì đã không tin vào Danh
của Con Một Thiên Chúa: Danh Con Một Thiên Chúa là chính Chúa
Giê-su (x. Ga 2,23; 1 Ga 3,23). Tin vào danh của Con Một Thiên Chúa tức
là liên kết với Chúa Giê-su, nhìn nhận và kêu cầu quyền năng của
Người. Chỉ nhờ Danh Chúa Giê-su, loài người chúng ta mới được ơn cứu
độ (x. Pl 2,9-11; Cv 10,43). Trái lại, những kẻ không tin vào Danh Người
thì sẽ không được hưởng ơn cứu độ ấy.
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1) Chúa Giê-su
đã dạy thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
ĐÁP:
Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói nhiều về mối liên hệ
mật thiết giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sau bữa tiệc
ly Vượt Qua (x. Ga 14.15.16.17). Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Đức Giê-su
mặc khải rõ nhất về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trước khi lên trời:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28,19).
Tin Mừng Mát-thêu cũng ghi lại cuộc thần hiện tại sông Gio-đan như sau:
“Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các
tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim
bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là
Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Tiếng phán,
Đức Giê-su và chim bồ câu là biểu tượng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh
Phao-lô cũng dạy về mầu nhiệm Ba Ngôi trong lời nguyện chúc: “Cầu
chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy
tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2
Cr 13,13). Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ lại trình bày lịch
sử cứu độ theo chiều kích Ba Ngôi như sau: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên
của Chúa Cha, thời cứu thế rao giảng Tin Mừng là kỷ nguyên của Chúa
Con, và thời Giáo Hội khai sinh phát triển đến Rô-ma, hay đến “tận
cùng thế giới” là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
- HỎI 2) Mầu nhiệm
Một Chúa Ba Ngôi được Thánh Kinh trình bày như mầu nhiệm Tình Yêu
giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ra sao?
ĐÁP:
- Chúa Cha luôn hiện hữu và sinh ra Chúa Con từ trước khi có
thời gian (x. Tv 2,7).
- Chúa Cha yêu mến Chúa Con và ban cho Chúa Con mọi quyền xét
xử (x. Ga 5,20.22).
- Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha (x. Ga 14,9-10).
- “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11).
- “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).
- Chúa Giê-su luôn vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga
5,19).
- Tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con xuất phát ra
Chúa Thánh Thần (x. Ga 15,26).
- HỎI 3) Ta có thể
dùng một số hình ảnh nào để minh họa về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi
?:
ĐÁP:
- Nhà thần học PHĂNG-SÍT (Frank Sheed) đã dùng hình ảnh mưa rơi
để giúp người ta hiểu phần nào về mầu nhiệm đơn nhất và đa dạng
của Chúa Ba Ngôi khi nói rằng: “Nước đang mưa đây đích thực là nước,
nhưng có thể xuất hiện bằng ba dạng khác nhau là: dạng hơi nước,
dạng băng đá và dạng nước thường như ta thấy”.
- Thánh I-nha-xi-ô một lần kia trong lúc cầu nguyện bỗng nhận
ra “ba nốt nhạc có thể làm thành một hợp âm duy nhất” cũng giống như
Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản thể duy nhất.
- Thánh Pa-tríck thường dùng hình ảnh lá cây tam diệp thảo do
ba lá nhỏ ghép lại thành một lá lớn.
- Có người lại dùng một hình tam giác đều có ba cạnh ba góc
bằng nhau để diễn tả mầu nhiệm này.
- Ngòai ra chúng ta cũng có thể dùng hình ảnh sau đây để minh
họa phần nào về mầu nhiệm này như sau: Một người đàn ông khi lập gia
đình có con thì tuy anh ta chỉ là một người, nhưng đóng ba vai trò khác nhau:
Vai trò làm “cha” nên được con gọi “Cha ơi”; Vai trò làm “con” nên được bố anh
ta gọi “Con ơi”; Vai trò làm “chồng” nên được vợ gọi “Mình ơi”.
- HỎI 4) Ba Ngôi Thiên
Chúa làm gì cho chúng ta ?
ĐÁP:
- Thiên Chúa Cha (Ngôi thứ Nhất) đã sáng tạo nên vũ trụ vạn
vật. Đặc biệt loài người đã được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh
của Người là có linh hồn thiêng liêng bất tử và có tình yêu thương (x.
St 1,37).
- Khi nguyên tổ loài người nghe theo ma quỷ cám dỗ mà phạm tội
bất phục tùng phải mang án chết, thì Thiên Chúa Cha lại hứa ban Chúa
Con (Ngôi thứ Hai) xuống thế để cứu chuộc loài người là Chúa Giê-su.
Sứ mệnh của Chúa Giê-su là cứu độ loài người bằng việc mở ra con
đường về trời là đạo Công giáo. Người đi rao giảng Tin Mừng Nước
Trời trong thời gian 3 năm để nhân loại nhận biết tôn thờ và sống
hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Vào lúc cuối đời, Người đã sẵn sàng
vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường "Qua đau khổ vào vinh
quang", sẵn sàng chịu chết trên thập giá để đền tội thay loài
người và sống lại để cứu độ loài người.
- Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơn ban Chúa
Thánh Thần (Ngôi thứ Ba) cho các Tông đồ. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ
khác, là Thần Chân Lý, do Chúa Cha sai đến để thay Chúa Giê-su tiếp
tục dạy dỗ các môn đệ (x. Ga 14,16). Trong thời Cựu Ước, Thánh Thần
đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy loài người. Đến thời Tân Ước,
Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su khi Người
chịu phép Rửa tại sông Gio-đan để tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai
(x Mt 3,16-17). Sau đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc để
chịu ma quỷ thử thách cám dỗ (x Mt 4,1-11), và đi khắp nơi rao giảng Tin
mừng Nước Trời (x Mt 4,17). Thánh Thần cũng làm cho Đức Giê-su từ cõi
chết sống lại. Vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra sai
các Tông đồ tiếp tục sứ mạng của Người và đã thổi hơi ban Thánh Thần cho
các ông kèm theo quyền tha tội (x Ga 20,20-23). Vào lễ Ngũ Tuần, Thánh
Thần lại hiện xuống trên Hội Thánh Sơ Khai dưới dạng một cơn gió mạnh
ào vào nhà nơi các Tông đồ đang cầu nguyện và làm xuất hiện trên đầu
mỗi vị một hình lưỡi lửa (x Cv 2,1-4). Từ đây Thánh Thần luôn hiện
diện trong Hội Thánh để thánh hóa các tín hữu qua các phép bí tích,
giúp các vị Mục Tử chu toàn sứ mệnh là thay Chúa Giê-su chăm sóc đoàn
chiên Hội Thánh và làm chứng nhân cho Người đến tận cùng thế giới (x.
Ga 15,26).
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chúng
ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên
Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là
tình yêu” (1 Ga 4,7-8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ NÀO LÀ TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH ?
Thánh MÁC-XI-MI-LI-EN KON-BÊ thụ phong linh mục năm 1918. Cha đã bị Đức
Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam trong một trại tập trung là Auschwitz.
Đây
là một nhà tù hãi hùng nhất vì gồm đủ mọi hình phạt và kỷ luật dã man dành cho
các tù nhân. Tù nhân không được mang tên mình mà mang một con số. Cha Maximilien
Kolbe mang số tù là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết
sức bất công: Nếu một tù nhân trốn trại, thì mười tù nhân khác sẽ bị chết thay.
Vào
một đêm tháng 8.1941, một tù nhân đã vượt ngục thành công. Thế là mười người
khác được chỉ định chết thay. Trong số mười người này có một người tù tên là
GAJOWNICZEK. Khi bị chỉ định, anh liền khóc lóc thảm thiết cho biết mình còn mẹ
già, vợ dại, con thơ không ai nuôi dưỡng. Trước cảnh tượng đó, do đức bác ái
thôi thúc, Cha Kolbe đã tình nguyện xin được thế chỗ chết thay cho người tù
kia. Được chấp nhận, cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14. Hôm
sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe vẫn
còn thoi thóp, người ta chích cho ngài một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng
vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong
lễ phong thánh cho chân phước Kolbe do Đức Thánh Cha Phao-lô VI cử hành, một cụ
già trong đoàn người dâng lễ vật hôm ấy đã được Đức Thánh Cha ôm hôn. Đó chính
là người tù đã được cha thánh Kolbe chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy,
toàn thể cộng đoàn sốt sắng hát bài thánh ca: “không có tình yêu nào trọng đại
cho bằng chết vì người mình yêu”. Đây là một chứng tích tình yêu cao cả khiến
mọi người hiện diện đều phải xúc động và rơi lệ.
2) CÂU CHUYỆN “ANH PHẢI SỐNG”:
Trong tác phẩm “Anh phải sống”, nhà văn Nhất Linh đã kể lại
một câu chuyện cảm động, nói lên tình nghĩa phu thê và tình mẫu tử
bao la như sau: Có hai vợ chồng tiều phu nghèo khó, sống bên một dòng
sông. Hằng ngày, ngay từ sáng sớm, hai vợ chồng đã phải thức dậy
cùng nhau bơi thuyền vào rừng, chặt củi cột thành từng bó, rồi chất
lên thuyền mang ra chợ bán lấy tiền về nuôi hai đứa con thơ dại. Rồi
một ngày nọ, đang lúc chèo thuyền từ rừng về thì trời nổi cơn giông
bão, chiếc ghe đầy củi của họ không thể chịu nổi sóng to gió lớn
đã bị lật úp ngay giữa dòng sông nước đang chảy siết hung dữ. Cũng
may là họ đã ôm được một khúc cây to và dìu nhau bơi vào bờ. Nhưng khi
gặp chỗ nước sóay, cả hai bị nước cuốn trôi mất khúc cây. Bấy giờ
anh chồng một tay ôm vợ, tay kia tiếp tục bơi. Thấy chồng dần dần
kiệt sức và cả hai sắp bị chết chìm, chị vợ nghĩ đến hai đứa con
thơ nên đã nói với chồng: “Anh hãy cố sống mà nuôi con anh nhé !”,
rồi chị âm thầm buông tay chồng chịu chết để anh đủ sức bơi vào bờ.
Chị đã sẵn sàng chết để chồng con được sống.
3) TÌNH THƯƠNG THỂ HIỆN QUA LÒNG THƯƠNG XÓT:
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén
sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả
đám cỏ đã được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong
góc sân. Sau đó ông bố không trả số tiền đã hứa vì đám cỏ chưa được cắt xong.
Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt
mảng cỏ còn sót lại kia. Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ
chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh
hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào
chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người không nỡ hủy diệt, lại sai con
Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh
Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước
Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con
người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
4) HÃY TRAO CHO NGƯỜI KHÁC TÌNH YÊU CỦA CON:
Tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy,
đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em
ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em. Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền
giáo đã xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những
viên gạch đá ném bừa bãi em. Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút
lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt
nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu
tinh của mình:
- Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là
em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều
càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng,
em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm
cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã
từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng, “con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con” phải chăng
cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy
trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa
cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy
là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần
nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân
thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm
thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình
cho người mình yêu được hạnh phúc.
5) CÁI CHẾT CỦA TÌNH MẪU TỬ:
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh
ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến X, nhưng
vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên
chị từ chối. Chị thà chết hơn là để bác sĩ chữa ung thư bằng quang tuyến X, ảnh
hưởng nặng đến đứa con trong bụng sắp ra đời.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai
mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng: ”Vào mấy ngày cuối cuộc
đời, dù biết mình sắp bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị
cũng sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”. Bác sĩ Ronald Lapin gọi
cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho
đứa con chưa một lần thấy mặt”.
6) PHỤC VỤ VÔ VỤ LỢI ĐỂ DIỄN TẢ TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA:
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người
không tin Chúa, sống trong cảnh nghèo khổ bị bỏ rơi ngược đãi, bị đối xử bất
công trong một thời gian dài đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người
cũng ghét bỏ bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của
Thiên Chúa, nhưng bà bảo:
- Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và tôi cũng
không hiểu yêu thương là gì nữa.
Cha sở về lại nhà xứ và cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý,
ngài cho mời nhóm Tông đồ trong xứ kể cho họ nghe câu chuyện này. Rồi ngài đề
nghị mọi người giúp cho bà ấy biết được thế nào là tình yêu của Chúa, bằng cách
mỗi người thay nhau đến thăm và phục vụ bà, để cho thấy vẫn có nhiều người yêu
thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ cho bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm, bà xúc động đến
rướm nước mắt:
- Thưa cha, bây giờ thì con đã hiểu yêu thương là gì rồi, và bây giờ
con có thể xin cha cho con được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không?
3. SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA LÀ TÌNH
YÊU:
- Tình yêu trong Ba Ngôi
: Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có
Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi,
phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng
cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa không đơn độc mà là Ba Ngôi
để có thể cho đi và nhận lãnh.
- Tình yêu của Chúa Cha
: Chúa Cha ban cho Chúa Con tất cả những gì mình
có: “Mọi sự của Cha đều là của Con”, nên Chúa Con là hình ảnh của Chúa Cha như
Chúa Giê-su nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”.
- Tình yêu của Chúa Con: Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh qua
thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục hoàn toàn: “Người đã vâng lời cho đến chết
và chết trên thập giá và đã hy sinh cả mạng sống của mình để đền tội thay cho
chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh
mạng sống vì bạn hữu”.
- Tình yêu rộng mở: không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đi khắp vũ trụ
đến tất cả mọi sinh linh vạn vật.
2) SỐNG YÊU THƯƠNG NOI
GƯƠNG THIÊN CHÚA:
Cụ thể là sống tình mến Chúa yêu người như sau:
a- Năng cầu nguyện với
Chúa Ba Ngôi: Một phương cách dễ dàng thực hành
là mỗi ngày dành ra ba phút cầu nguyện trước khi đi ngủ theo nội dung
sau:
+ Phút thứ nhất: Suy nghĩ tìm ra những việc tốt đẹp đã làm được trong ngày
qua, như đã giữ được bình tĩnh khi bị người khác đặt điều vu khống,
rồi dâng một lời cầu để tạ ơn Chúa Cha.
+ Phút thứ hai: Tìm ra những điều sai lỗi trong ngày, như đã có thái độ dửng
dưng khi thấy kẻ khác gặp nạn, rồi dâng một lời cầu xin Chúa Giê-su
tha tội cho mình.
+ Phút thứ ba: Nhớ đến những sự khó khăn đang gặp phải và dâng lời cầu xin
Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm để vâng theo thánh ý Thiên
Chúa.
Việc cầu nguyện này bao gồm cả ba phương diện là tạ ơn, ăn năn
sám hối và xin ơn lành hồn xác. Việc cầu nguyện như thế sẽ giúp ta
sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cách suy nghĩ nói năng và hành động.
Ngòai ra ta cũng có thể làm dấu thánh giá để tuyên xưng mầu nhiệm
Một Chúa Ba Ngôi.
b- Thể hiện tình yêu tha
nhân như Chúa đã yêu chúng ta: Tin Mừng hôm nay
cho biết Tình yêu thực sự phải có các đặc tính của tình yêu của
Thiên Chúa như sau:
+ Tình yêu dâng hiến: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người đến trần
gian để hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 3,16a; 10,11). Chúa
Giê-su đã dạy: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Vậy tình yêu của bạn
dành cho tha nhân thế nào ? Bạn có dám hy sinh chịu thiệt vì người mình
yêu không ?
+ Tình yêu vị tha: tình yêu chân thực đòi năng nghĩ đến người mình yêu để mong cho họ
được hạnh phúc như lời Chúa Giê-su: “Mục tử tốt lành sẵn sàng hy
sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tình yêu chân chính luôn
tìm làm cho người yêu vui lòng và được may lành hạnh phúc noi gương Chúa
Giê-su: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Bạn có yêu cha mẹ và những người thân của bạn như vậy không ?
+ Một tình yêu cao
cả: Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Thiên Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng
ta đáng yêu, nhưng “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta
còn là những tội nhân” (Rm 5,8). Cũng vậy, chúng ta phải yêu hết mọi
người, nhất là những người tàn tật, cô đơn, tội lỗi, và yêu cả
những kẻ đang thù ghét bách hại mình (x. Lc 6,27-42). Tình yêu của
bạn có cao cả như thế không ?
+ Một tình yêu tôn
trọng: Tình yêu của Thiên Chúa không chiếm hữu hay
cầm tù người yêu và luôn tôn trọng tự do của con cái lòai người: “Ai
tin thì được sống đời đời. Còn kẻ không tin thì đã bị kết án”.
Tình yêu của bạn dành cho người khác có tự nguyện không ? Bạn có ghen
tuông cấm người yêu gặp gỡ tiếp xúc với người khác không ? Bạn có tin tưởng và
tôn trọng người yêu không ? Thánh Phao-lô cũng viết: “Tình yêu tha thứ
tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).
c- Thực hành yêu thương
cụ thể theo kinh Thương Người có 14 Mối:
+ Thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống, Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ
liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
+ Thương linh hồn bảy
mối: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dậy kẻ mê muội;
Yên ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho
kẻ sống và kẻ chết.
TÓM LẠI: chúng ta sẽ xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ
với tình yêu thực sự như thánh Gio-an đã viết: “Ai không yêu thương thì
không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ước gì
cuộc đời chúng ta sẽ thấm đượm tình yêu, để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về tình yêu, khi chúng ta
biết luôn nghĩ đến tha nhân, sẵn sàng chia sẻ và khiêm nhường phục vụ
mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh và đang bị bỏ rơi.
4. THẢO LUẬN:
1) Những hình ảnh
nào thường được dùng để diễn tả mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, bạn
thích hình ảnh nào nhất ? Tại sao ? 2) Noi gương Tình yêu của Chúa Ba
Ngôi, bạn sẽ làm gì để sống kết hiệp với Chúa Ba Ngôi và luôn yêu thương phục
vụ mọi người ?
5. CẦU NGUYỆN:
- LẠY CHÚA BA NGÔI LÀ TÌNH YÊU, Giữa một thế giới đề cao
quyền lực và lợi lộc vật chất, xin dạy con biết phục vụ trong khiêm
tốn và vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị và ham hưởng thụ,
xin dạy con yêu thương cách quảng đại và khiêm nhường tự hiến. Giữa
một thế giới có nhiều phe phái chia rẽ nhau, xin dạy con luôn sống
hiệp thông và có tinh thần trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy thành
kiến và kỳ thị giai cấp, màu da, phái tính… xin dạy con biết nhìn
mọi người đều là anh em và chân thành yêu thương họ.
- LẠY CHÚA BA NGÔI CHÍ THÁNH. Chúa là mẫu gương của một tình
yêu hoàn hảo. Xin hãy biến đổi trái tim sơ cứng như đá của chúng con
thành trái tim bằng thịt biết yêu thương. Xin dạy chúng con yêu thương
mọi người, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh. Xin cho chúng con luôn thấy Chúa Giê-su đang
hiện diện trong chúng con và trong mọi người. Nhờ tình yêu Chúa thôi
thúc, chúng con hy vọng sẽ trở nên con hiếu thảo của Chúa Cha và nên
anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM