Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng
Lễ kính
Thánh Phanxicô Xaviê - Bổn mạng các xứ truyền giáo
« Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ,
loan báo Tin Mừng »
LỜI CHÚA : Mc 16, 15-20
15
Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo
Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được
cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.
17
Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ
được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.18 Họ sẽ cầm được rắn, và
dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những
người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ."
19 Nói xong, Chúa Giê-su
được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20 Còn các Tông Đồ thì
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu
lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
SUY NIỆM
I. “Cháy, cháy… trong tim”
Trong cuốn Bạn Đường
Chúa Giêsu, cha Hoàng Sóc Sơn viết về thánh Phanxicô Xaviê như sau:
Trong 10 năm truyền giáo, ngài đã vượt gần 100
ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ,
Malaixia, Inđônêxia, Nhật Bản và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước
vào Trung Hoa […].
Ai cũng phải công nhận ngài táo bạo đến mức liều
lĩnh. Đường biển thời ấy luôn bị đe dọa vì bệnh dịch, bão tố và hải tặc, nhưng
ngài tin tưởng nếu Chúa không cho phép, không có gì làm hại được ngài[1].
Với những lao nhọc và
thành quả truyền giáo phi thường như thế, thánh Phanxicô được coi là, theo như
phần giới thiệu về thánh Phanxicô trong Sách Lễ Phụng Vụ Dòng Tên, một
trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất trong lịch sử Hội Thánh, chỉ sau thánh
Phaolô. Đối với Dòng Tên, ngài là nhà truyền giáo đầu tiên và số một; ngài được
tuyên thánh năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Đó chính là khuôn mặt của
thánh Phanxicô Xaviê mà mọi người thường nói và viết. Tuy nhiên, chúng ta cũng
nên tự hỏi: những biến cố nào đã dẫn ngài đến với Phương Đông? Đâu là những
kinh nghiệm đem lại cho ngài sức mạnh như vô tận để thực hiện được những điều
phi thường như thế? Chắc chắn chúng ta chỉ có thể khám phá ra câu trả lời, khi
trở lại với thời gian ngài học ở Paris.
a. Ở cùng phòng
Trước hết, đó là kinh
nghiệm ở cùng phòng với thánh I-nhã Loyola. Kinh nghiệm này như các
thư của ngài chứng tỏ, sẽ mãi mãi ghi dấu trong tim của thánh Phanxicô. Nhưng
làm thế nào I-nhã đã chinh phục được Phanxicô? Điều này mãi vẫn là một bí ẩn
giữa hai người, và ở đàng sau, đó là điều bí ẩn của chính Thiên Chúa. Chúng ta
có thể so sánh bí ẩn này với bí ẩn của thánh Phaolô.
Có người nói rằng, đó là
nhờ vào sự kiên trì của I-nhã rỉ vào tai Phanxicô một câu nói của Đức Giêsu:
“Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc
8, 36) Điều này có lẽ là không đủ và chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà thôi, bởi lẽ
Lời Chúa không thể thấm vào lòng người bằng con đường áp đặt. Điều chúng ta có
thể biết chắc chắn, đó là ngài được ví như “nắm bột thô nhất” trong số các bạn
của I-nhã.
b. Tình bạn trong Chúa
Tiếp đến, đó là kinh nghiệm
tình bạn trong Chúa, một tình bạn được thôi thúc bởi lòng ước ao trở thành
những người phục vụ cho sứ mạng của Đức Kitô trong thời đại của các ngài. Tình
bạn này được khởi sự và triển nở ngay trong những sinh hoạt rất bình thường của
đời sinh viên, như học tập, trao đổi, giải trí, những việc làm thường ngày; tuy
nhiên, tình bạn này chỉ trở nên “tình bạn trong Chúa” khi được nuôi dưỡng và
trở nên sâu đậm bởi một đời sống thiêng liêng sâu xa của từng người và ngang
qua những lúc họp mặt cầu nguyện và chia sẻ.
Tình bạn của thánh
Phanxicô và các bạn đạt tới đỉnh cao nơi lời khấn Montmartre, vào ngày
15/08/1534: cùng nhau sống khó nghèo, khiết tịnh và đi hành hương Giêrusalem;
sau đó trở về làm việc cho phần rỗi tha nhân, những người tin cũng như chưa tin,
rao giảng Lời Chúa và cử hành cách nhưng không các bí tích.
c. Kinh nghiệm Linh Thao
Và sau cùng, phải kể đến
kinh nghiệm Linh Thao. Chính thánh I-nhã đã hướng dẫn Linh Thao cho thánh
Phanxicô vào cuối tháng 9 năm 1534, nghĩa là ngay sau lời khấn ở Montmartre.
Chắc chắn, thánh Phanxicô đã học được rất nhiều điều trong suốt hơn mười năm ở
Paris; tuy nhiên, khi đọc các thư của ngài, chúng ta có cảm tưởng rằng nội dung
giảng dạy và cách thức ngài hướng dẫn người khác sống đức tin chủ yếu đến từ
nội dung và phương pháp của Linh Thao!
* * *
Bạn “cùng phòng” với thánh
Inhã, tình bạn trong Chúa và tháng Linh Thao, theo một cách thức thích ứng với
từng người, cũng chính là những kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta đều đã và
đang thực sự trải qua. Đối với chúng ta, kinh nghiệm bạn “cùng phòng” với thánh
I-nhã phát xuất cách nào đó từ việc đọc và học Trình Thuật của thánh
Inhã; kinh nghiệm này cần được nuôi dưỡng để không bị nhạt nhòa, ngang qua việc
đọc đi đọc lại Trình Thuật và đọc thêm các bản văn khác của ngài, và đặc
biệt ngang qua những hoạt động mừng kính ngài hằng năm (chẳng hạn như viết bài
chia sẻ, sáng tác nhạc, ngâm thơ, hát vọng cổ, đóng kịch về thánh nhân). Kinh
nghiệm cho thấy rằng, chúng ta càng hiểu và yêu mến thánh I-nhã, như thánh
Phanxicô đã hiểu và yêu mến, chúng ta càng sẵn sàng để cho Chúa biến đổi và
lòng chúng ta càng “bùng cháy” với niềm khát khao phụng sự Đức Kitô, Chúa chúng
ta, như bài hát về thánh I-nhã của cha Hữu Thu diễn tả: “Cháy, cháy… trong
tim”. Thánh I-nhã có tài thông truyền “ngọn lửa” này cho những ai chịu “nói
chuyện” với ngài và thực sự chịu để cho ngài hướng dẫn.
Những kinh nghiệm này là
ân sủng, đúng hơn là “đặc sủng”, vì Chúa ban một cách thật đặc biệt và với
nhiều ưu ái cho thánh Phanxicô và tiếp tục ban cho mỗi người chúng ta theo cùng
một cách thức. Ước gì “đặc sủng” này cũng làm cho con tim chúng ta bùng cháy để
trở thành những người phục vụ “phi thường” cho sứ mạng của Đức Ki-tô hôm nay.
II. « Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ »
Trong Linh Thao, thánh Phan-xi-cô Xa-viê đã chiêm ngắm cuộc đời của Đức
Giê-su, từ mầu nhiệm Nhập Thể đến mầu nhiệm Đức Ki-tô chết và phục sinh và đã
được Người ban ơn hiểu biết và yêu mến Người.
Ngài đã đi theo Đức Ki-tô và làm chứng cho Người đến cùng, đến cùng của
thế giới và đến cùng của sự sống. Vì thế, ngài cũng đã lắng nghe cùng một lời
mời gọi của Đấng Phục Sinh, mà chúng ta lắng nghe trong Thánh Lễ mừng kính ngài
hôm nay.
1. Lắng nghe lời chứng (c.
14)
Trước khi Đức Ki-tô phục
sinh sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng : « Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ… », Ngài đã khiển trách các ông đã không tin và cứng lòng
đối với lời chứng của các chứng nhân : « Người tỏ mình ra cho chính
Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và
cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi
Người trỗi dậy » (c. 14).
Như thế, Đức Ki-tô phục
sinh rất coi trọng việc chúng ta làm chứng cho nhau, lời của của người khác
dành cho chúng ta, lời chứng của chúng ta dành cho người khác. Trước khi trở
thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở lòng ra để lắng nghe các chứng nhân.
Và điều này phải làm chúng ta ngặc nhiên : kinh nghiệm này cũng phải có,
ngay cả đối với các tông đồ, vốn là các chứng nhân ưu tuyển ! Thật vậy,
trước khi trở thành chứng nhân, chính các tông đồ cũng đã phải trải qua kinh
nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác, vốn đã được ban ơn nhận ra Đức Ki-tô phục
sinh trước. Đó là chứng từ của bà Maria Magdala và chứng từ của hai môn đệ từ
Emmau trở về (c. 9-13). Bởi vì chính Đức Ki-tô phục sinh hiện diện nơi lời
chứng mà chúng ta chia sẻ cho nhau.
2. Ra đi làm chứng (c.
15-18)
Tuy vậy, một đàng Người
khiển trách các môn đệ, đàng khác Đức Ki-tô phục sinh vẫn tin tưởng trao sứ
mạng cho ông. Chúng ta hãy dừng lại suy gẫm từng lời của Đức Ki-tô :
Người mời gọi các môn đệ
đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Đó là chiều
kích phổ quát của việc loan báo Tin Mừng, bởi vì Tin Mừng của Đức Ki-tô và Tin
Mừng của thế giới sáng tạo là một (x. Rm 10, 18 trích Tv 19, 5).
« Ai tin và chịu phép
rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, sẽ bị kết án ». Nhưng kinh
nghiệm sống cho chúng ta nhận ra rằng, người ta đã « tự kết án » mình
rồi, khi không tin, bởi vì không tin vào sự sống người ta tất yếu sẽ hành động
cho sự chết, sẽ chứng minh sự chết mạnh nhất, do đó, sẽ trở thành nô lệ của
thần chết.
Ngoài ra, Đức Ki-tô còn
ban những dấu lạ, đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Đức Ki-tô, các
chứng nhân trừ quỉ (1), nói tiếng lạ (2), cầm được rắn, uống thuốc độc cũng
không sao (3) và chữa bệnh bằng cách đặt tay (4). Thế hệ đầu tiên đã được ban
những ơn đặc biệt như thế. Còn chúng ta, những ơn này bây giờ vẫn được ban,
nhưng dưới những hình thức khác, tuy không ngoạn mục, nhưng sâu xa và bền vững
hơn :
(1)
Ơn phân định
thần loại, nghĩa là phân biệt các
thần loại và xác định sự hiện diện và
cách hành động của Chúa, Đấng ban ơn an ủi ; đồng thời cũng xác định sự có mặt và các hành động « mưu
mô » của Sự Dữ, làm điều ngược lại.
(2)
Ơn thông truyền đức tin và kinh nghiệm thiêng
liêng gặp gỡ Chúa, cho dù có rất nhiều khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa…
(3)
Con rắn và thuốc độc là những biểu tượng của sự dữ
và bạo lực. Chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thập Giá Đức Ki-tô, như lời Tv
8 : « Chúa cho miệng con thơ trẻ nhỏ, cất tiếng ngợi khen đối lại
địch thù, khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan ».
(4)
Chúng ta được mời gọi quan tâm chăm sóc bệnh nhân ;
bởi vì, bệnh nhân còn sống và được chữa lành bởi sự hiện diện cảm thông và yêu
thương nữa, nhất là những trường hợp hiểm nghèo hay nan y.
Nhưng trên hết là, chúng ta
được mời gọi thi hành sứ mạng « nhân danh Đức Ki-tô », chúng ta chỉ
là tôi tớ, là nữ tì ; và vì thế, phải để cho Chúa hành động.
3. Đức Ki-tô phục sinh lên trời (c. 19-20)
Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên
hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao
giảng.
(c. 19-20)
Như thế, « lên
trời » có nghĩa là « ngự bên hữu Thiên Chúa »; Đức Ki-tô đến từ
Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa, ngang qua thân phận con người. Chúng ta
cũng chia sẻ niềm vui với Đức Ki-tô ; đồng thời đây cũng là niềm hi vọng
lớn lao cho chúng ta :
Thân phận con người là
đường đi, và thiết yếu là ơn huệ, và ơn huệ lớn nhất và căn bản nhất là ơn huệ
sự sống, chứ không phải ngỏ cụt, hình phạt hay nơi chốn của « thử thách »,
theo nghĩa người « bị thử » vẫn chưa đáng tin, cần phải kiểm tra hay
kiểm nghiệm. Bởi lẽ, Chúa đã đến phục vụ cho sự sống của chúng ta và Người đã
« phục vụ đến cùng ». Và nơi đến là chính Thiên Chúa ; vì Ngài
đã nói : « Thầy đi để dọn chỗ, trong Nhà Cha có nhiều chỗ ; để
thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy » ; « Thiên Chúa của Thầy,
cũng là Thiên Chúa của anh em ; Cha của Thầy cũng là Cha của anh
em. »
Ngoài
ra, theo thánh Mác-cô, chính khi Đức Ki-tô « lên trời », Ngài đi vào
cách hiện hữu mới, để có thể hoạt động cùng với các chứng nhân, là các Tông Đồ,
là Giáo Hội, là mỗi người chúng ta.
* * *
Xin
cho chúng ta, nhờ lời cầu bầu của thánh Phan-xi-cô, được ơn nhận ra sự đồng
hành rất âm thầm và kín đáo, nhưng cũng rất sống động và hữu hiệu của Đức Ki-tô
phục sinh trong sứ vụ, trong ơn gọi đi theo Người trong đời sống gia đình hay
trong đời sống dâng hiến, ngang qua ơn huệ Lời Chúa và Thánh Thể và ngang qua
mọi biến cố được hiểu và sống dưới ánh sáng của Mầu Nhiệm Vượt Qua.
Mùa Vọng 2018
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hoàng Sóc Sơn, Bạn Đường Chúa Giêsu,
1997, trang 15-16.