Suy
Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần III Mùa Vọng C
PHÉP RỬA
CỦA GIOAN
LỜI CHÚA: Mt 21,
23-27
23 Khi ấy, Đức
Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong
dân đến gần Người mà hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông
quyền ấy?” 24 Đức Giêsu đáp: “Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu
các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền
nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời
hay do người ta?” Họ mới nghĩ thầm: “Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn
lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ 26 Còn nếu mình nói: ‘Do người
ta’, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ”. 27 Họ
mới trả lời Đức Giêsu: “Chúng tôi không biết”. Người cũng nói với họ: “Tôi cũng
vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy”.
SUY NIỆM
Có hai người đàn ông đi thám hiểm và bị lạc vào rừng sâu. Suốt
ba ngày ròng rã họ đã hết lương thực và nước uống. Giữa lúc đó họ bất ngờ phát hiện
một con suối nhỏ với dòng nước trong vắt. Người thứ nhất reo lên sung sướng: - Ôi
! Tạ ơn Chúa, chúng ta sẽ không phải chết. Nói xong ông cởi bỏ hành lý, xuống
suối múc nước uống và tắm rửa.
Thấy người bạn đồng hành vẫn đứng trên bờ, ông liền gọi lớn: -
Này anh bạn, sao không xuống thưởng thức dòng nước mát của trời cho. Người đàn
ông thứ hai trả lời: - Anh có biết nguồn nước này từ đâu chảy ra không? Ở đây đất
đá khô cằn làm sao có nguồn nước sạch được, tôi sợ đó là nước thải, uống vào sẽ
chết. Người đàn ông thứ nhất liền giải thích: - Tôi nghĩ dòng suối này là do những
mạch nước ngầm chảy ra từ các khe nứt của núi đá, uống vào cảm thấy mát ngọt sảng
khoái. Người đàn ông thứ hai nhất định không chịu uống nước, ông vẫn đứng trên
bờ băn khoăn tự hỏi mạch nước này phát xuất từ đâu và sẽ chảy đi đâu? Cuối cùng
ông bị kiệt sức và ngất xỉu bên dòng suối mát.
Thái độ nghi ngờ của người đàn ông trên phần nào giống thái độ
của các thượng tế và kỳ mục Do thái khi thấy Chúa Giêsu làm được những việc phi
thường, họ ghen tức tiến đến có ý để gài bẫy, họ hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm
các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” Chúa Giêsu không trả lời vào câu hỏi
nhưng chất vấn ngược lại: “Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu
các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền
nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay
do người ta?” Tất cả các thượng tế và kỳ mục đều né tránh và không dám trả lời.
Họ biết rõ quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa nhưng vì kiêu căng và ích kỷ
khiến con mắt họ mù quáng, con tim họ lạnh lùng khép kín.
Câu hỏi của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở những người cứng lòng tin
biết khiêm tốn nhìn nhận quyền năng của Thiên Chúa. Trong lịch sử cứu độ, ông
Gioan là nhân vật đầu tiên của Tân ước, là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ và
Giao ước mới. Gioan có vai trò đặc biệt quan trọng, là vị tiền hô đến trước để
dọn đường cho Chúa, ông chính là “phông nền” làm nổi bật chân dung của Đấng
Mêsia. Ông Gioan có mối liên hệ sâu sắc trong sự mặc khải về căn tính của Chúa
Giêsu trước hết qua bà Êlisabét và qua phép rửa nơi dòng sông Giođan.Ông đến
trước chuẩn bị lòng dân sám hối, làm phép rửa bằng nước để họ đón nhận ơn cứu độ.
Sau khi hoàn thành sứ mạng, ông Gioan liền lui vào bóng tối để choánh sáng Đức
Giêsu xuất hiện.
Dân Do thái xưa đã trải qua hàng ngàn năm cơ cực sống kiếp lưu
đày trên phần đất của dân ngoại. Mang thân phận nô lệ, họ phải cúi đầu gánh chịu
những luật lệ hà khắc của đế quốc. Vì thế họ khát khao sớm được giải thoát và
thiết tha khẩn cầu “Lạy Đức Chúa là Đấng Cứu Chuộc chúng con, xin Ngài mau trở
lại. Xin Ngài xé trời mà ngự xuống cho núi non rung chuyển trước thánh nhan”. Thế
nhưng khi Đấng Mêsia xuất hiện họ lại không nhận ra Người. Họ cầu mong một Đấng
Mêsia theo nghĩa trần gian. Đấng ấy phải có đầy sức mạnh, đánh đông dẹp tây thu
phục thiên hạ bá tánh. Vì thế khi đối diện với một Đức Giêsu nghèo hèn khiêm tốn,
một con người quảng đại yêu thương người nghèo khổ thì họ không tin nhận.
Thái độ cứng tin của những thượng tế và kỳ mục Do thái vẫn tồn
tại trong cuộc sống hôm nay. Biết bao lần chúng ta cũng cầu mong Chúa đến giải
thoát khỏi gánh nặng của phận người yếu đuối tội lỗi. Đáng tiếc khi Chúa đến
chúng ta cũng không nhận ra. Đó là vì chúng ta thiếu niềm tin và lòng yêu mến.
Niềm tin là điều cần thiết giúp chúng ta nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa.
Người sống không niềm tin chẳng khác nào con thuyền trôi lênh đênh trên biển lớn
không biết đâu là bến bờ. Muốn đi tới đích người ta phải chọn cho mình một hướng
đi đúng và phải tin tưởng đó là đích đến của hành trình. Niềm tin như ngọn hải
đăng soi cho người lữ khách tiến bước mà không sợ lạc lối. Con người có thể sống
thiếu cơm thiếu áo nhưng không thể sống nếu thiếu niềm tin. Cuộc đời con người
là một hành trình dài ra đi và trở về. Ra đi là để trở về với cội nguồn, với bản
chất nguyên sơ của chính mình. Con người phát xuất từ Thiên Chúa và phải trở về
với Thiên Chúa. Trong cuộc đi và về ấy đều phải có niềm tin dẫn dắt, nếu không
chúng ta sẽ chẳng đạt được ước nguyện của cuộc đời mình.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy ông Abraham đã được Chúa gọi
ra đi. Trong hành trình ấy, ông đã được Thiên Chúa mở cho nhiều lối, đó là lối
về với chính mình và lối gặp gỡ Thiên Chúa. Ra đi ông mới thấy liều lĩnh, mạo
hiểm lao mình về phía trước, dám đánh đổi vận mệnh của cả một dân tộc đi theo lời
Chúa hứa. Nhờ niềm tin, Abraham ra đi bỏ lại sau lưng tất cả cơ nghiệp ruộng đất để ông được lớn lên, già dặn với
gió sương và trưởng thành trong chọn lựa. Nhờ tin tưởng và phó thác, Abraham đã
gặp gỡ được chính Thiên Chúa, trái tim ông được đổi mới và thêm can trường trước
mọi thử thách, trước viễn cảnh tương lai mờ mịt. Nhờ niềm tin ông đã đi từ chỗ
hữu hạn đến nơi vô hạn, đi từ không đến có, từ bấp bênh đến vững bền trong giao
ước để rồi không ngần ngại dâng cho Chúa đứa con trai nhỏ duy nhất. Đức tin đã
làm cho Abraham can đảm để ra đi, khiêm tốn để phục vụ, an bình để từ bỏ, nhẫn
nại để chịu đựng, hy vọng để phó thác và đạt đến hạnh phúc đích thực.
Bên cạnh niềm tin, đức mến ví như một thứ men giúp ngọn lửa
nhiệt thành của chúng ta luôn cháy sáng và bền bỉ qua mọi khó khăn thử thách. Chúng
ta dễ dàng theo Chúa khi cuộc sống thuận buồm xuôi gió êm chèo mát mái nhưng sẵn
sàng từ chối Chúa khi gặp cuồng phong bão tố. Con người chúng ta luôn bị tác động
bởi ngoại cảnh và dễ bị lôi cuốn bởi vẻ hào nhoáng của thế gian. Vì thế chúng
ta phải xác tín vững vàng và phải dựa vào ân sủng của Chúa để tiến bước. Chúa vẫn
song hành với chúng ta trên mọi nẻo đường nhưng chúng ta không nhận ra. Chúng
ta chỉ biết đặt ra những câu hỏi nhưng lại không tìm sự thinh lặng để lắng nghe
câu trả lời. Đôi lúc Thiên Chúa không trả lời một cách hiển nhiên nhưng gián tiếp
qua những biến cố, qua Giáo hội và các bí tích. Để nhận ra những mặc khải của
Thiên Chúa, chúng ta phải có lòng khát khao và khiêm tốn thực sự. Ước gì chúng
ta biết mở lòng ra trước những mặc khải của Thiên Chúa,
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và cư ngụ giữa thế gian nhưng
chúng con vẫn chưa tin nhận vì tâm hồn chúng con còn đầy ắp thói kiêu căng tự
phụ nên không đón nhận những mặc khải của Chúa. Chúng con khép kín lòng mình và
không để cho Chúa đi vào cuộc đời. Xin nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng con để
chúng con can đảm tuyên xưng và làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Xin thắp lên
trong tâm hồn chúng con ngọn lửa tin yêu để chúng con lướt thắng những yếu đuối
của phận người mà vươn lên vui sống. Xin tẩy rửa tư tưởng chúng con khỏi mọi
nghi ngờ dối trá để chúng con vững tin Chúa là nguồn Chân Lý đích thực vì chỉ
có Chúa mới lấp lầy mọi nỗi khát vọng của chúng con.
Amen.
Nt. Maria Anh Thư, OP