TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CÁC ÔNG
LỜI
CHÚA: Lc
17,20-25
20 Khi
ấy, người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả
lời : “Triều Đại Thiên Chúa không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát
được. 21 Và người ta sẽ không nói : ‘Ở đây này !’ hay ‘Ở kia kìa !’, vì này
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”
22 Rồi
Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một
trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. 23 Người
ta sẽ bảo anh em : ‘Người ở kia kìa !’ hay ‘Người ở đây này !’ Anh em đừng đi,
đừng chạy theo. 24 Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời
kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25 Nhưng
trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.”
SUY NIỆM
Thánh Martin de Tours mất ngày 8 tháng 11 tại Candes (Touraine). Lễ nhớ được
mừng từ thế kỷ VIII, vào ngày 11 tháng 11, là ngày ngài được an táng tại thành
phố Tours. Nhưng ở Gaule, việc tôn kính ngài đã phổ biến từ thế kỷ V.
Tên gọi Martin lấy từ tiếng Latinh Martinus = thần Marx nhỏ, thần chiến tranh.
Theo ông Sulpice Sévère († 420), học trò và người viết tiểu sử ngài, ngài sinh
tại Pannonie (Hungari) khoảng năm 317. Là con một sĩ quan Rôma, ngài được học
hành tại Pavia (Ý) và được chiêu mộ vào đội cận vệ hoàng gia. Tuy cha mẹ ngài
là dân ngoại, ngay từ tuổi nhỏ, ngài đã xin học đạo. Được gửi sang Gaule, người
lính trẻ này khi đến cổng thành Amiens đã chia sẻ áo choàng của mình cho một
người nghèo. Đêm hôm sau –Sulpice Sévère thuật lại– thánh Martin “thấy Đức Kitô
mặc một nửa tấm áo choàng mà ngài đã phủ lên người nghèo khổ kia. Và ngài nghe
Chúa Giêsu nói với các thiên thần bằng một giọng nói vang dội: Trong khi còn là
người dự tòng, Martin đã mặc cho Ta tấm áo này.”
Ngài rời bỏ binh nghiệp và chịu phép rửa tội năm 20 tuổi, rồi trở thành học trò
của thánh Hilariô, giám mục thành Poitiers. Giám mục Hilariô ban chức trừ tà
cho ngài. Khi giám mục của ngài bị phe lạc giáo Arius bắt lưu đày, thánh Martin
đã đến tận Pannonie để cải hóa mẹ ngài theo đạo. Sau đó ngài trở lại Gaule qua
vùng Illyria và Bắc Ý rồi đến Poitiers với thánh Hilariô, lúc đó đã từ nơi lưu
đày trở về.
Ở Ligugé, trong vùng Vienne, ngài lập tu viện đầu tiên ở Gaule. Nhờ lời cầu
nguyện, ngài làm cho một người dự tòng đã chết sống lại, nhờ đó danh tiếng ngài
lan rộng khắp vùng. Nhiều môn đệ đi theo ngài.
Thánh Martin được chọn làm giám mục thành Tours năm 371: nhiệm kỳ giám mục của
ngài đánh dấu sự phát triển của Kitô giáo trong vùng Gaule phía tây. Vì có ơn
gọi tu sĩ, ngài lập gần thành phố Tours một tu viện tên là Marmoutier; từ đó
ngài thường xuyên cư ngụ trong tu viện này. Các môn đệ qui tụ quanh ngài rất
nhiều, trong đó phải kể đến Paulin của Bordeaux, sau này là giám mục Nole, và
nhà chép sử Sulpice Sévère, tác giả cuốn Tiểu sử Thánh Mác-ti-nô, tác phẩm có
công lớn trong việc phổ biến tiểu sử của vị thánh thành Tours. Công cuộc truyền
giáo của thánh Martin mở rộng ra bên ngoài giáo phận. Ngài rảo qua khắp vùng
Touraine, Berry, Auvergne. . . Người ta gặp ngài ở Autun, ở Paris. Trong những
vùng đồng quê, ngài đã tổ chức những giáo xứ đầu tiên và nhiều tu viện được
thiết lập với các tu sĩ truyền giáo theo gương thánh Martin, vừa chăm lo đời
sống tu đức, vừa hăng say hoạt động rao giảng tin mừng.
Là con người hoà bình, thánh Martin kết thúc cuộc đời ở Candes, gần thành phố
Tours, nơi ngài đến để hoà giải hàng giáo sĩ đang chia rẽ. Hôm đó là ngày 8
tháng 11 năm 397. Ngài được an táng ở Tours, thành phố có toà giám mục của
ngài, và phần mộ này đã trở thành trung tâm hành hương đầu tiên ở Gaule. Thánh
Martin là một trong số các thánh đầu tiên được tôn kính mà không phải là một
thánh tử đạo. Người ta kể ra rất nhiều phép lạ ngài đã làm; không vị thánh nào
trong thời Pháp cổ xưa nổi tiếng như ngài. Bốn ngàn ngôi nhà thờ được dâng kính
ngài và gần năm trăm làng mang tên của ngài.
Các ảnh thánh về ngài rất nhiều, thường vẽ ngài dưới dạng một lính lê dương
Rôma hay một giám mục với mũ gậy, hay như một người làm phép lạ. Truyền thống
dân gian đã giữ lại kỷ niệm về ngài qua lễ hội Mùa hè của lễ thánh Martin:
người ta đặt tên như thế cho những ngày đẹp trời cuối cùng mà người ta thường
tổ chức quanh ngày 11 tháng 11.
“Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa
các ông.” Hầu hết Người Ki-tô hữu cầu nguyện bằng kinh lạy cha chí ít một
tuần một lần khi tham dự thánh lễ Chúa nhật. Và lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng
câu:
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, Chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
nước (triều đại) Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (x.
Mt 6, 9 – 11; Lc 11,2)
Thường thì người ta cầu nguyện, người ta van xin khi khát khao, mong mỏi hoặc
cảm thấy cấp thiết được đáp ứng một điều gì đó. Lời cầu nguyện đúng nghĩa phải
là lời cầu nguyện phát xuất từ thẳm sâu tâm hồn con người; không câu nệ, không
máy móc, không cảm thấy áp lực hoặc bị cưỡng ép. Chúng ta thường đọc kinh lạy
Cha với tâm tình nào?
Phải hiểu, phải cảm được sự tối cần thiết của nước Thiên Chúa trong cuộc sống
con người thì con người mới khát khao mong mỏi ‘Nước Chúa hiển trị’. Nhưng
trình thuật Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su cho chúng ta biết nước Thiên Chúa đã
đến rồi: “Triều Đại Thiên Chúa đang
ở giữa các ông.” (c. 21b). Vậy chúng ta cần hiểu triều đại Thiên Chúa
như thế nào?
Cha Tu viện trưởng Pierre, một người nổi tiếng trong việc chăm sóc giúp đỡ
người nghèo ở Pa-ri, sống trong một tu viện rộng lớn với mười hai anh em. Vào
một đêm trung tuần tháng giêng, khi băng giá và tuyết trắng bao phủ khắp mặt
đất, một gia đình nghèo rét mướt bấm chuông cửa và xin cho được nương nhờ một
góc nào đó trong tu viện để ngủ, nếu không thì tất cả gia đình họ sẽ bị
chết trong giá rét. Cha Bề trên Pierre rất băn khoăn vì mỗi phòng trong căn nhà
đều đã đầy ắp người. Chỉ còn mỗi ngôi nhà nguyện nhỏ là còn trống. Vì vậy, cha
đành kiệu Thánh Thể từ bàn thờ lên đặt trên căn gác mái, nơi mà không ai có thể
ở được vì rét lạnh. Cha đã sắp xếp và đưa gia đình nghèo tội nghiệp kia vào ngủ
trong căn phòng cầu nguyện duy nhất của Tu viện.
Sáng hôm sau, các anh em vô cùng ‘shock’ khi thấy Thánh Thể ‘biến mất’, thay
vào đó là một gia đình đang ngủ trên sàn nhà. Họ rất khó chịu vì cho đây là sự
bất kính không thể chấp nhận được và giận dữ khi cha bề trên cho biết Thánh Thể
được đặt trên gác mái, nơi gió tuyết có thể thổi xuyên qua mái nhà. Nhưng cha
Tu viện trưởng giải thích: “Các anh em của tôi, Đức Ki-tô không cảm thấy lạnh
hay nóng trong bí tích Thánh Thể, nhưng Đức Ki-tô trong mỗi con người sẽ cảm
được điều đó trong chính họ!”
Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Ki-tô đã đến. Người không
những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống
chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn,
bất hạnh. (x. Mt 25, 35 - 36)
Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu
nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những
người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha
hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình
yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa
sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em
với nhau.
Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta
có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ
tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng
ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ
không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước
vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết
sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm
cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.
“Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia
kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo.” (c. 23)
Ngược lại với lời Đức Giê-su, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện
lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’;
nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy – con người, đời sống
chẳng có gì biến đổi. Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm
mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Cuộc sống chỉ
còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao
giờ đủ.
Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi
người Ki-tô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có
còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải
sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.
Lm.
Anton Maria Vũ Quốc Thịnh.