Suy Niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên
“Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi”
Lời
Chúa : Mc 12, 35-37
35 Khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi: "Sao các
kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít?36 Chính vua Đa-vít
được Thánh Thần soi sáng đã nói:
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha
đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.
37 Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là
con vua ấy thế nào được? " Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích
thú.
1. Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít?
Trong các bài Tin Mừng của
những ngày vừa qua, thánh sử Mác-cô kể lại những nhóm người khác nhau
(Pha-ri-sêu, Hê-rô-đê, Xa-đốc và kinh sư) thay phiên nhau đến chất vấn Đức
Giê-su về những vấn đề thuộc bình diện xã hội (đóng thuế), niềm tin (sự sống
lại) và về các điều răn (điều răn đứng đầu). Họ đặt câu hỏi không phải để đi
tìm ánh sáng Chân Lý, nhưng là để « Người phải lỡ lời mà mắc
bẫy ! » (c. 13).
Nhưng Đức Giê-su dùng chính ý
muốn làm hại Người, như trong cuộc Thương Khó, để bày tỏ sự khôn ngoan thần
linh của người, đến độ « họ hết sức ngặc nhiên về Người » (c. 17),
một trong các kinh sư « thấy Đức Giê-su đối đáp hay » (c. 28), và sau
cùng « không ai dám chất vấn Người nữa ! » (c. 34).
Và trong bài Tin Mừng theo
thánh Mác-cô hôm nay, ngang qua đám đông (x. Mc 12, 37), những người Pha-ri-sêu
(x. Mt 22, 41), các kinh sư (x. Lc 20, 39-41), đến lượt Đức Giê-su, chính Người
chất vấn những người đã đến chất vấn Người, về chính căn tính của Đấng Ki-tô,
nghĩa là của chính Người, khởi đi từ niềm tin của người Do thái và lời Kinh
Thánh :
Sao các kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua
Đa-vít? (c. 35)
Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng,
thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế nào được? (c. 37)
Xin cho chúng ta biết đi tìm
lời giải đáp cho mọi vấn đề của loài người và của từng người chúng ta nơi Đức
Giê-su Na-da-rét, là « Đấng Ki-tô » và là Con Thiên Chúa hằng sống.
2. Lời nguyện
Thánh Vịnh
Sách Thánh Vịnh là tập sách gồm 150 Thánh Vịnh, được biên soạn bằng
tiếng Do thái và làm thành một trong các sách quan trọng của phần Cựu Ước (x.
Lc 24, 44). Ai là tác giả của các Thánh Vịnh? Xưa kia người ta có thể trả
lời : « đó là vua Đavít », bởi vì dân tộc Israel, kể cả những
người của Tân Ước đã gán các Thánh Vịnh cho Đavít. Tuy nhiên, khoa chú giải
Kinh Thánh hiện đại cho chúng ta biết rằng việc gán tên này chỉ có gía trị biểu
tượng: danh xưng « Đavít » là dấu chỉ mà ở đó cả Israel đã nhận ra
mình, nó tập hợp tất các thi nhân vô danh đã viết các Thánh Vịnh[1]. Trên
bình diện lịch sử biên soạn, các nhà chuyên môn nhìn nhận có một “hạt nhân” cổ
xưa từ thời vua Đavít (từ năm 1000), sau đó các Thánh Vịnh khác được biên soạn
từ từ dọc theo suốt dòng lịch sử Israel cho đến tận thế kỷ II trước công nguyên[2].
Điều này làm cho hình ảnh của sách Thánh
Vịnh thêm đẹp hơn, vì giống với các thánh đường cổ xưa, vốn mang dấu vết
của nhiều giai đoạn lịch sử, đến độ có thể thâu tóm cả chiều dài lịch sử. Như
thế, lời nguyện Thánh Vịnh, vốn cũng là Lời Chúa, có tầm mức lịch sử cứu độ
hướng đến Đức Ki-tô và được Đức Ki-tô hoàn tất ; tương tự như hình ảnh
« Vua Đa-vít », vua Đa-vít hướng tới Đức Ki-tô, Đấng vừa là con vua
Đa-vít và vừa là Con Thiên Chúa (x. Lc 1, 30-33).
* * *
Trong sách Thánh Vịnh có nhiều lời nguyện diễn tả niềm hi vọng về Đấng
Ki-tô sẽ đến (Tv 2 ; 21 ; 45 ; 72 ; 89 ; 101), đặc
biệt là Tv 110 (109), vốn là Thánh Vịnh mà Giáo Hội cho chúng ta đọc
vào giờ Kinh Chiều II của tất cả Chúa Nhật :
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,
để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con. (Tv 110, 1)
Người Do thái mong chờ một Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và
họ hi vọng « con vua Đa-vít » sẽ tái lập vương triều vua Đa-vít thuộc
bình diện xã hội và chính trị. Để giúp người nghe, người Do thái xưa kia và mọi
người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, hiểu đúng về tước hiệu và
sứ mạng của « Đấng Ki-tô Con vua Đa-vít », Đức Giê-su dựa vào chính
niềm tin lời nguyện Thánh Vịnh là lời nguyện của vua vua Đa-vít, và đặt câu
hỏi : « Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng
Ki-tô lại là con vua ấy thế nào được? » (c. 37).
Theo Đức Giê-su, Đấng Ki-tô không chỉ là con vua Đa-vít, nhưng một
cách nghịch lý còn là « Chúa Thượng » của vua Đa-vít, nghĩa là còn là
Con Thiên Chúa, và vì thế Vương Triều của Người không thuộc về thế gian này (x.
Ga 18, 36)
3. Đức Giê-su Nazarét : Con vua Đa-vít và là Đức
Ki-tô Con Thiên Chúa
Câu hỏi của Đức Giê-su chỉ có thể tìm được câu trả lời nơi chính ngôi vị
của Người và kinh nghiệm đích thân gặp gỡ và đi theo Người, như Người hỏi các
môn đệ : « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? (Mc 8, 29).
Nhưng để hiểu Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta nên bắt đầu từ
đâu và giai đoạn nào ? Cũng tương tự như tìm hiểu một người, chúng ta phải
trở về « nguồn gốc » của Ngài. Nói về nguồn gốc, chúng ta nghĩ ngay
đến hành trình từ trời xuống thế, nghĩa là nguồn gốc theo chiều dọc, như chúng
ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : « Người đã từ trời xuống
thế ». Nhưng các Tin Mừng trình bày cho chúng ta một nguồn gốc khác, theo
chiều ngang, đó là bản gia phả, hay nguồn gốc của Đức Ki-tô, vì Ngài cũng là
Con của Con Người, như sau này Ngài thích tự xưng như thế, và nhất là Ngài có
sứ mạng « mang lấy các bệnh hoạn tật nguyền » của loài người và của
từng người chúng ta.
|
Thiên Chúa
(Mc và Ga)
â
|
Thiên Chúa à
|
Adam và Eva à
|
Abraham à
|
Đa-vít à
|
Đức Giê-su
Ki-tô
|
Lc 3, 23-38
â
|
Mt 1, 1-17
|
Loài người
|
Israel : Dân Tộc được Thiên Chúa
tuyển chọn
|
Tôi và dân tộc tôi : cùng nguồn
gốc với Israel ; Israel được tuyển chọn để chia sẻ ; cách Thiên
Chúa yêu thương Israel là cách Thiên Chúa yêu thương mọi người.
|
|
|
|
|
|
Đức Giê-su Ki-tô vừa có nguồn gốc trực tiếp từ Thiên
Chúa, vừa có nguồn gốc từ một dân tộc như chúng ta, và vừa có cùng nguồn gốc
với chúng ta. Giống như mỗi người chúng ta : vừa thuộc về một dân tộc, vừa
thuộc về loài người, được Thiên Chúa tạo dựng. Tại sao Đức Ki-tô có hai nguồn
gốc ? Đó là để mang lấy « mọi bệnh hoạn tật nguyền của ta », cho
ý nghĩa và dẫn tới hoàn tất, với tư cách – và chỉ có thể với tư cách này – là
Ngôi Lời Thiên Chúa, được sinh ra từ thủa đời đời.
Xin cho lòng chúng ta được bừng cháy, như hai môn đệ trên đường Emmau (x.
Lc 24, 32), khi được ơn hiểu biết căn tính thần linh của Đức Giê-su Ki-tô, và
khi nhận ra trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, Người mang lấy và làm cho hoàn tất mọi sự
liên quan đến thân phận và lịch sử loài người, trong đó có từng người chúng ta
hôm nay.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
M. Mannati, Pour prier avec les Psaumes,
« Cahier Evangile », n. 13, Paris, Cerf, 1975, tr. 9.