Suy Niệm Lời
Chúa Tuần IV Mùa Chay Năm A
TRỞ NÊN ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 9,1-41
(1)
Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2)
Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này
sinh ra đã bị mù. Anh ta hay cha mẹ anh ta ?” (3) Đức Giê-su trả lời:
“Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng
chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi
anh. (4) Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời
còn sáng. Đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thầy còn
ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. (6) Nói xong, Đức Giê-su nhổ
nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. (7)
Rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa
là: Người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì
nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia
thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi
ăn xin đó sao ?” (9) Có người nói: “Chính hắn đó !” Kẻ khác lại rằng:
“Không phải đâu ! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi”. Còn anh ta
thì quả quyết: “Chính tôi đây !” (10) Người ta liền hỏi anh: “Vậy làm
sao mắt anh lại mở ra được như thế ? ”. (11) Anh ta trả lời: “Người tên
là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy
đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy
được”. (12) Họ hỏi anh: “Ông ấy ở đâu ?” Anh ta đáp: “Tôi không biết”. (13)
Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. (14) Nhưng
ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là
ngày Sa-bát. (15) Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm
sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt
tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy”. (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì
nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ
ngày sa-bát”; Kẻ thì bảo “Một người tội lỗi sao có thể làm được
những dấu lạ như vậy ?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi
người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh
đáp: “Người là một vị Ngôn sứ !”. (18) Người Do thái không tin là
trước đây anh bị mù nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến.
(19) Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không ? Ông bà nói là anh
bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được ?”. (20) Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó
là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao
nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó,
chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó. Nó đã khôn lớn rồi,
tự nó, nó nói về mình được”. (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người
Do thái. Thật vậy, người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội
đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. (23) Vì thế, cha
mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. (24)
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: Anh hãy tôn
vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi”.
(25) Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không
biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù, mà nay tôi nhìn
thấy được !” (26) Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh ? Ông
ấy đã mở mắt cho anh thế nào ?” (27) Anh trả lời: “Tôi đã nói với
các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn
nghe lại chuyện đó nữa ? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy
chăng ?” (28) Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy.
Còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết
rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê. Nhưng chúng ta không biết ông ấy
bởi đâu mà đến”. (30) Anh đáp: ”Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết
ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi !
(31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn
ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời
kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ
lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến,
thì ông ta đã chẳng làm được gì”. (34) Họ đối lại: “Mày sinh ra tội
lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ? ” Rồi họ
trục xuất anh. (35) Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi
gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không ?”. (36) Anh
đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” (37) Đức Giê-su trả lời:
“Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. (38) Anh nói:
“Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. (39) Đức
Giê-su nói:"Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người
không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !". (40)
Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên
tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” (41) Đức Giê-su bảo
họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây
các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn !”.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện Đức Giê-su
chữa cho người mù từ khi mới sinh cho thấy: Đức Giê-su chính là Ánh
Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được
ánh sáng ấy. Trong cuộc đối thoại, anh mù đã từng bước hiểu biết
về Người: Từ "một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ !”
(17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Cuối cùng là “Con Người”
(35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã
tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” và sấp mình trước mặt Người (37). Quả
thật, chỉ những ai thực tâm muốn tìm Chúa mới gặp được Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu
Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do
tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5).
Chính Đức Giê-su có lần cũng chia sẻ tư tưởng ấy: “Này, anh đã được
khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga
5,14). + Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh:
Ở đây Đức Giê-su còn coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải
chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Đức
Giê-su đến nhằm giải thoát cho họ (x. Lc 13,16).
- C 6-9: + Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và
xức vào mắt người mù: Theo các nhà chú giải Kinh
Thánh: Đức Giê-su làm như vậy để thử thách đức tin của người mù. + Anh
hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai
đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở
mới sinh nhìn thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng cho
những ai đang ngồi trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.
- C 35-41: +Anh có tin vào Con Người không? : Sau khi mở con mắt
thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức
tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin như Người
đã từng làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi
đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải là lên
án (x. Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu soi để tỏ cho thấy những
điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người không xem thấy
được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời
cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng
lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ những ai khiêm
tốn và thành tâm đón nhận đức tin mới được nhìn thấy ơn cứu độ.
4. CÂU HỎI:
1)
Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không ? 2)
Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào mắt người mù để chữa bệnh mang ý
nghĩa thế nào ? 3) Tại sao Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến rửa
mắt tại hồ Si-lô-ác ? 4) Tại sao Đức Giê-su lại nói: "Cho người
không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù" ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến
thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy,
và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI:
Ngày xưa ở Ấn độ,
có một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính đi kiếm năm người bị
mù từ lúc mới sinh đưa về triều đình làm trò tiêu khiển cho triều thần. Vua truyền
đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng: “Các ngươi chưa hề biết
voi là gì thì hôm nay trẫm sẽ cho các ngươi biết. Các ngươi hãy lại gần sờ vào voi
rồi nói cho trẫm và quần thần biết voi có hình thù ra sao. Ai tả con voi đúng
nhất sẽ được trọng thưởng”.
Anh mù thứ nhất sờ
đúng cái chân của voi liền tâu: “Tâu bệ hạ! Con voi có hình thù giống như cột
nhà!” Anh thứ hai sờ đúng cái tai voi vội cãi: “Không đúng. Voi giống như một
cái quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói: “Voi giống như một khúc cây
ngoằn ngoèo!” Anh thứ tư sờ trúng bụng
voi cãi lại: “Voi giống một tảng đá lớn, tròn tròn!” Tới lượt anh thứ năm sờ
trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia đều sai và tâu vua: «Voi chỉ như
một cái chổi cùn!”
Anh nào cũng quyết
liệt bảo vệ ý kiến của mình là đúng, và bác bỏ ý kiến của các người kia. Ban
đầu họ còn nói nhỏ, về sau to tiếng và còn xông vào đánh nhau chí chóe, đang
khi nhà vua và triều thần ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương của cả bọn.
Mỗi người mù nói
trên chỉ biết được một phần sự thật mà tưởng rằng mình am tường tất cả và đánh
giá những ai không suy nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả như họ biết khiêm
tốn nhìn nhận kiến thức hạn hẹp của mình và biết bổ sung bằng ý kiến kẻ khác
thì hay biết mấy.
2) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC MÌNH THÌ
QUÁNG:
Có một học giả rất
thông thái nhưng lại mắc bệnh đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một ông bạn
thân. Dù đang ngồi trên lưng lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ đọc sách thánh hiền
và buông lỏng dây cương. Con lừa sau khi đi được một đoạn đường đã theo đường
cũ quay trở lại ngôi nhà của ông. Thấy lừa dừng lại, ông học giả tưởng đã đến nhà
bạn, liền xuống lừa và đi chung quanh quan sát một vòng ngôi nhà. Ông nói lời
phê bình cốt để bạn ông trong nhà nghe được: "Ông bạn già của ta sao lại cẩu
thả như thế này: Ngôi nhà đã bị xuống cấp gần sập đến nơi mà chẳng chịu lo sửa sang
gì cả!". Vợ ông ở trong nhà nghe vậy liền bước ra và nói: "Ông nhận
xét thật chính xác. Nhưng đây là nhà của ông đó !".
Trong cuộc sống, nhiều
người thường có nhận định sáng suốt về chuyện của người khác, nhưng lại mù mờ về
những chuyện của chính mình như người ta thường nói: “Việc người thì sáng, mà
việc mình thì quáng”. (Theo Ernst Wilhelm Nusselein).
3) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH BẢN THÂN:
Một vị Nhật hoàng
sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên yêu cầu các quan tìm kiếm một
người biết nói đùa. Người ta đã dẫn đến cho vua một vị thiền sư.
Nhật hoàng nói: “Ta
muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và ta sẽ không hài tội về lời nói đùa của
ngươi”. Thiền sư nói: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo”.
Nhà vua nói: “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!” Thiền sư đáp: “Còn hạ
thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y như Đức Phật!” – Nhà vua liền thắc mắc: “Tại
sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”- “Tâu bệ
hạ, dễ hiểu thôi ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn đâu cũng thấy Đức Phật; Còn ai
có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng thấy lợn!”
4) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN:
Có một đôi vợ
chồng kia rủ nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên trưng bày tranh thêu
lụa. Vừa bước vào đến cửa, bà vợ liền nhìn vào bên trong cửa hàng và nêu nhận
xét gián tiếp chê bai cửa hàng: "Tranh thêu gì đâu mà xấu tệ! Như mặt người
đàn bà trong bức tranh kia trông chẳng giống ai!". Ông chồng liền vội bịt
miệng vợ lại và nói: "Đó không phải là tranh thêu đâu, mà là tấm gương soi
đó. Hình người phụ nữ bà thấy kia chính là hình của bà phản chiếu trong tấm gương
đó ! Tốt nhất là bà hãy giữ im lặng dùm, chứ đừng lên tiếng phê phán cách hồ
đồ!". Bà vợ cảm thấy xấu hổ nên đã vội vã bỏ về ngay sau đó.
Câu chuyện trên cho
thấy thói xấu của nhiều người trong chúng ta: Tuy sáng mắt nhưng lại có tâm hồn
mù tối. Nhiều khi chúng ta phê phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân
tướng không tốt của mình, như người ta thường nói: "Chân mình những lấm bê
bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
3. SUY NIỆM:
1) AI CŨNG CẦN ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG:
Vào một đêm nọ, có
một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù
không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền lấy ra chiếc lồng đèn của mình
trao cho anh mù. Nhưng anh mù từ chối và nói: “Đối với người mù như tôi thì ban
ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác gì bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm
theo chiếc lồng đèn vì việc làm đó là vô ích!
Bấy giờ chủ nhà
mới giải thích: « Tôi biết anh không cần đến chiếc lồng đèn để soi đường.
Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì người khác sẽ không nhìn thấy anh và có
thể họ sẽ đụng vào người anh đấy! » Anh mù nghe bạn nói có lý nên đã nhận
chiếc lồng đèn rồi ra về.
Đi được một đoạn
đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào suýt té. Anh ta liền
tức giận la mắng: « Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm chiếc đèn lồng
trên tay hay sao? » Người kia liền trả lời: “Đúng là anh đang cầm một
chiếc đèn lồng đấy. Nhưng ngọn lửa bên trong cây đèn đã tắt rồi, nên tôi không
nhìn thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”
Câu chuyện trên
giúp chúng ta hiểu được rằng: Để đi trong bóng đêm ai cũng cần ánh sáng. Ánh
sáng giúp người ta thấy đường đi, thấy người khác và tránh được các trở lực
trên đường. Người mù đi trong đêm tối, tưởng như không cần ánh sáng soi đường,
nhưng anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để người khác khỏi đụng phải anh.
2) CÓ HAI LOẠI MÙ: MÙ MẮT THỂ XÁC VÀ
MÙ TỐI TÂM HỒN:
Người mù bẩm sinh
trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù mắt thể xác nhưng lại sáng lòng hơn những
người Pharisêu luôn tự hào về sự khôn ngoan thông thái. Người Pha-ri-sêu bị thành
kiến che mờ tâm trí nên không nhận ra Đức Giê-su là Đấng cứu độ và đã tự loại
mình ra khỏi Nước Trời do Người thiết lập.
Có nhiều nguyên
nhân gây ra bệnh mù tâm hồn như sau:
-
Mù quáng do lòng tham không đáy:
Sách Các Vua có
thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham lam muốn
chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án kể tội Na-vốt
đã dám nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết.
Lòng tham đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm tội giết hại người
nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (1 V Ch 21)
Mù
quáng do thói ganh tị:
Sách Samuel ghi
lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng sau khi Đavít giết được tướng
giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn về thành.
Đa-vít được các phụ nữ đi đón rước. Họ vừa múa nhảy theo tiếng reo mừng não bạt,
vừa ca hát như sau: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đa-vít giết được hàng
vạn”. Nghe lời ca đó, vua Sa-un cảm thấy rất tức giận Đa-vít. Chính do lòng
ganh tị đã làm cho vua trở thành kẻ mù quáng, từ lòng yêu thương hóa ra thù
ghét và đã ra tay truy lùng Đa-vít, quyết giết chết bằng được người anh hùng Đa-vít
nầy. (1 Sm, Ch 18).
Mù
quáng do dục tình lấn lướt:
Sau khi lên làm
vua thay Sa-un, vua Đa-vít do mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm
cho vua mù quáng và đã phạm tội nặng giết chồng đoạt vợ (2 Sm, Ch 11).
Tóm lại, do tình
dục, do lòng tham, do kiêu căng ganh tị… mà người ta có thể trở nên mù tối
phạm phải những tội ác không ngờ. Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng;
nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù tâm hồn, do không ý thức tình trạng mình
đang bị mù, nên không quyết tâm ra khỏi tình trạng mù quáng của mình, và cuối
cùng đã bị loại ra khỏi Nước Trời, giống như các đầu mục dân Do thái khi xưa.
3) HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI
MÙ TRONG TIN MỪNG:
Niềm tin của người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự thử thách.
Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh: Thoạt tiên, anh chỉ coi Đức Giê-su là
một người nào đó qua câu nói: “Người
tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: Anh
hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy
được” (Ga 9,11). Sau khi nghe đám đông bàn
tán, và bị người Pha-ri-sêu tra hỏi, anh đã nêu nhận định: “Người là
một vị Ngôn sứ !” (Ga 9,17). Rồi trước sự phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm bênh vực
việc làm của Đức Giê-su: “Nếu không phải là người
bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,33). Cuối cùng khi gặp gỡ Đức Giê-su và được Người cho biết mình
chính là Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9,35-37), thì anh mù đã lập tức tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin”, và
đã thể hiện niềm tin bằng việc sấp mình xuống trước mặt Người (Ga 9,38).
4) SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY THẾ NÀO?:
- Theo Đức Giê-su
thì mù không phải là một cái tội. Cố tình bịt tai nhắm mắt do cứng
lòng tin như các đầu mục Do thái mới là tội. Nhiều khi chúng ta cũng có
thái độ giống như các người này khi tự bịt tai nhắm mắt, cố tình không
nhìn nhận những khuyết điểm lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa sám
hối canh tân. Muốn biết mình ra sao, chúng ta cần có thời gian tĩnh tâm
để hồi tâm sám hối và quyết tâm canh tân đời sống.
- Ngoài ra, trong
bất cứ việc gì, chúng ta cần ý thức mình chỉ nhìn thấy một phần
sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi tha nhân. Điều ta
biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng. Còn những điều ta chưa
biết thì to lớn và chìm sâu dưới mặt nước. Do đó, khi có quan điểm
khác nhau, thay vì cãi nhau chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe và sẵn sàng chấp
nhận ý kiến đúng đắn của người khác để đạt tới chân lý.
- Cuối cùng, ta
cần lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, tiếp thu sự phê bình của người
khác để nhận biết con người thật của mình, vì thói thường: “Việc
người thì sáng, việc mình thì quáng!”, và “biết mình biết người,
trăm trận trăm thắng !”. Khi nhận ra con người thật của mình, chúng ta sẽ phải
canh tân đổi mới để ngày một nên hoàn thiện hơn theo thánh ý Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
Trong
Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để nhận ra con người thực của mình và
quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện
giống như Đức Giê-su hơn ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu:
hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý…
Nhất là đang cố tình bịt tai nhắm mắt giống như những người Pha-ri-sêu
xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự
những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người thật của mình. Xin cho
chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa hơn, biết rõ con
để không còn dám tự mãn, nhưng quyết tâm tu sửa các thói hư để ngày
một nên hoàn thiện giống Chúa nhiều hơn.
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH - HHTM