SUY NIỆM PHÚC ÂM THỨ BẢY TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN
KHIÊM NHƯỜNG ĐÍCH THẬT
LỜI CHÚA : Lc 14, 1.7-11
(1) Một ngày sabát kia, Ðức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.
(7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này". Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho". Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn". (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".
SUY NIỆM
Lần nọ, một cha già cố nói với tôi: “Thời xưa, Chúa Giêsu dạy người ta khi đi ăn tiệc phải chọn chỗ rốt hết. Nếu Chúa có mặt ở thời nay thì Ngài sẽ thất nghiệp, chẳng còn phải dạy dỗ nữa”. Tôi hỏi tại sao thì Cha Cố trả lời: “Cha cứ để ý xem: mỗi lần Đức Cha Giáo Phận đi thêm sức ở đâu, hay trong các bữa tiệc sau dịp đại lễ, các cha đều “né” bàn có Đức Cha và chọn bàn rốt hết, làm cho các cha xứ (chủ nhà) phải đi năn nỉ từng cha lên bàn trên vì thấy Đức Cha ngồi có một mình…Hoặc trong các đám giỗ, đám cưới, tân gia…giáo dân cứ chọn bàn ngoài hiên đang khi trong nhà còn thật nhiều bàn trống, khiến chủ nhà đôi khi thật khó xử…” Phải chăng ngày nay các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã quá “thấm nhiễm” tinh thần khiêm nhường mà Chúa Giêsu dạy bảo?
Hôm nay, theo bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu được mời đi dự tiệc tại nhà một thủ lãnh Pharisieu, khi thấy người ta đi dự tiệc cứ chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu đã dạy họ phải tìm chỗ cuối hết. Ngài không dạy cho chúng ta một mánh lới, một tiểu xảo để được vinh dự khi chủ nhà mời ta lên cỗ nhất. Trái lại, Ngài muốn nhân cơ hội đó dạy ta về đức khiêm nhường đích thật.
Người Do Thái cũng giống như người Việt Nam chúng ta, thường rất thích sĩ diện. Ngày xưa, các cố ông cố bà chỉ ao ước được một lần vinh dự ăn tiệc giữa làng, nơi chỉ có các chức sắc, vai vế trong hương thôn làng xã mới được mời, nên đã ví von bằng hình ảnh: “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Nhưng “miếng giữa làng” chắc gì đã ngon hơn “sàng xó bếp” vì coi chừng bị ngộ độc thực phẩm do làm vội, làm ẩu và làm bẩn; và chắc chắn “miếng giữa làng” sẽ chẳng no bụng như “ sàng xó bếp” vì tiệc xong về nhà lại phải dặm thêm một gói mì tôm. Thế nhưng tại sao người ta vẫn thích, vẫn muốn và vẫn “mê” miếng giữa làng ấy? Thưa, bởi vì kèm theo “miếng giữa làng” là những ánh mắt thèm thuồng, ước ao, những lời xì xào bàn tán, những câu bình phẩm khen chê vì mình không được vinh dự đó. “Miếng giữa làng” ngày xưa ấy bây giờ đã được biến đổi. Nó không còn chỉ ở trên bình diện miếng ăn nữa mà nó đã trở thành sự háo danh và chen vào mọi sinh hoạt của người Kitô hữu, ngay cả những sinh hoạt đạo đức: muốn được ghi tên trên bảng vàng nhà thờ vì đã dâng cúng cái này cái kia, muốn được mọi người trong xứ biết đến vì mình đã có công với giáo xứ, thậm chí tôi dâng cúng cái ghế đá ở đài Đức Mẹ thì phải có tên gia đình tôi ở sau lưng ghế, đi lễ hằng ngày và đọc kinh to để mọi người thấy tôi là người đạo đức, cho ai cái gì thì tôi phải được mọi người chân nhận là đầy tình bác ái yêu thương…Tóm lại, nhiều Kitô hữu chúng ta đang đi vào bước chân của những người Pharisieu, những kẻ đã bị Chúa Giêsu kết án là giả hình. Để tránh cái thói háo danh và giả hình ấy, Chúa mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, hãy thấy rằng mình cũng chỉ mang thân phận con người đầy những yếu đuối bất toàn trước mặt Thiên Chúa và vì vậy đừng lên mặt với người khác nhưng hãy biết vị trí thật của mình là gì. Chúa không chỉ dạy chúng ta sống đức khiêm nhường, nhưng chính ngài đã đi bước trước, đã sống trước: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự…” (Phil 2, 6 – 8). Thánh Phaolo suy niệm và thấy rằng Đức Kitô đã khiêm nhường tự hạ và sự tự hạ sâu thẳm nhất đó là Ngài đã vâng lời thực hiện thánh ý Chúa Cha bằng việc chấp nhận chết đau thương trên thập giá. Điều đó cũng đúng trên Đức Maria, mặc dù được chọn sinh ra Đấng Cứu Độ muôn loài, nhưng Mẹ vẫn khiêm nhường tự nhận mình là tỳ nữ thấp hèn và sẵn sàng tuân hành thánh ý: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền…” (Lc 1, 38). Các Thánh, chẳng hạn như Thánh Martino mà hôm nay chúng ta kính nhớ, cũng không đi ra ngoài con đường mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã đi: khiêm nhường và vâng lời. Thánh Martino đã tự nhận mình là “thằng mọi đen, thằng con lai” và chỉ xin ở trong ngành trợ sĩ khi gia nhập dòng Đaminh. Trong nhà dòng, Ngài mau mắn vâng lời và thi hành những công việc thường hèn mà bề trên xếp đặt. Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng Ngài như khí cụ để thực hiện những phép lạ phi thường. Đến lượt chúng ta, các Kitô hữu, con đường mà chúng ta phải đi cũng là con đường đó: bắt chước Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các Thánh để nỗ lực thực hiện đức khiêm nhường, để sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, ý Giáo Hội và cả ý bề trên. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc.