CHỦ NHẬT 4 CHAY B
Tình yêu là cách thức tuyệt vời để Thiên Chúa vượt
qua khoảng cách diệu vợi mà tội lỗi đã gây ra để đến với con người. Tình yêu gắn
liền với thập giá lại còn là phát minh của sự khôn ngoan Thiên Chúa mà con nguời
không sao hiểu nổi. Tình yêu đồng nghĩa với chia sẻ, quan tâm, mong muốn điều tốt
lành nhất cho nguời mình yêu. Đó chính là những gì mà Chúa Giê su đã nói đến
khi mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Sách 2Sb 36,14-16:
Vua Ba by lon kết thúc Vương quốc Đa vít. Ông thiêu
hủy Đền thờ, triệt hạ tường thành Giê ru sa lem và lưu đày sang Ba by lon thành
phần ưu tú của Is ra el. Một cuộc lưu đày gần 50 năm. Nhưng cuộc ly hương đau đớn
nầy đã mang lại những giá trị thực cho Dân tộc đang lạc đường vì cuộc sống tội
lỗi. Chính vinh quang Thiên Chúa đã rút ra được điều tốt lành từ điều dữ.
Thánh vịnh 136
Đây là bài ca hồi tưởng cố hương của người bị lưu
đày vẫn chưa chấm dứt thời gian trị bệnh. Họ mơ đến việc trả thù. Thỉnh thỏang
cũng là bài ca của chúng ta mơ đến sự vươn lên và luôn sẵn sáng đổ lỗi cho hoàn
cảnh đã làm cho chúng ta phải mang kiếp nô lệ mà không dám nhìn thẳng chúng ta
để tìm ra những nguyên nhân đích thực gây nên tai ương.
Thư Ep 2,4-10
Chính nhờ Chúa Giê su mà chúng ta nhận đuọc ân sủng
của Chúa Cha. Thánh Phao lô muốn cho chúng ta biểu được Lòng Thương Xót của Cha
lớn lao dường nào, vượt xa những điều gì chúng ta mơ ước. Tin rằng chúng ta có
thể xứng đáng được ơn Cứu độ là một điều ảo tưởng. Ơn CỨU ĐỘ là món quà cho
không của TÌNH YÊU mà Thiên Chúa Cha ban tặng cho chúng ta.
Tin mừng Gioan 3,14-21
Một tình yêu khó tin
NGỮ CẢNH
Chương 2 tin mừng Gio an đề cập đến những thay đổi
mà Chúa Giê su thực hiện khi bắt đầu công cuộc rao giảng: rượu mới (2,1-11), đền
thờ mới (2,13-22), phụng tự mới (4)... Có một số người do thái đã tin vào Ngài
(2,23-25). Nhưng trước hết phải canh tân toàn diện con người, điều kiện căn bản
để được chấp nhận vào trật tự mới (c.3). Đây là chủ đề cuộc nói chuyện giữa
Chúa Giê su và ông Nicôđêmô. (3,1-21), và cũng là ngữ cảnh gần của đoạn văn của
chúng ta.
Có thể đọc đoạn văn theo bố cục như sau:
1. Phần đầu (3,1-12) nói về sự cần thiết phải tái
sinh bởi Thần khí để thấy được Nước Thiên Chúa.
2. Phần hai (3,13-21) xác quyết rằng chỉ có Con Người
từ trời xuống mới có thể mạc khải chương trình của Cha, tức là tái sinh con người
bằng cái chết và sự sống lại của Đức Ki tô (cc 13-17), nhờ niềm tin và danh con
Một, tuyệt đối cần thiết để hưởng ơn Thần khí (cc16-21).
TÌM HIỂU
Giương cao: đoạn văn khởi đầu bằng việc nhắc lại
câu truyện kì diệu về con rắn đồng xảy ra trong thời gian dân Thiên Chúa lang
thang trong sa mạc (Ds 21,8-9). Sự so sánh nhằm vào ba điểm: con rắn đồng giải
thoát người do thái khỏi những con rắn độc giết hại; cũng thế Con người sẽ giải
thoát khỏi sự chết; con rắn đồng được giương lên cao, trên đầu gậy do ông Mô sê
dựng lên; Con Người cũng sẽ bị giương lên cao khi bị đóng đinh trên thập giá
lúc Ngài sẽ được tôn vinh. Sau cùng để được cứu thoát cần phải ngước nhìn lên
con rắn đồng; hướng nhìn về phía Đấng bị đóng đinh (x.19,37), người tín hữu sẽ
tìm được sự sống. Con Người “sẽ được giương cao” là kiểu nói đặc biệt của tin mừng
Gio an ám chỉ Đức Ki tô bị treo trên thập giá, được lặp lại ba lần: (ở đây;
8,28;12,32) tương ứng với ba lần loan báo khổ nạn trong các tin mừng nhất lãm.
Yêu: lí do chính yếu của việc Chúa Con đến trần
gian và nguồn mạch nguyên thủy của ơn cứu độ chúng ta là tình yêu của Thiên
Chúa. Động từ agapan, yêu, rất quan trọng đối với Ga, xuất hiện lần đầu tiên ở
đây. Như trong 1 Ga 3,1; 4,9-11 và ở Rm 5,8; 8,32, ở đây chúng ta có lời khẳng
định rằng Thiên Chúa yêu thương con người và rằng tình yêu ấy có đối tượng là
toàn thể nhân loại.
Ban: đây là chứng cớ cho thấy
rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian và muốn cứu độ nó: Ngài đã ban Con của Người.
Ban hoặc cho ở đây có một ý nghĩa khá gần với giao phó. Bằng từ nầy, Chúa Giê
su không những ám chỉ đến sự Nhập thể nhưng còn đặc biệt đến cuộc Khổ nạn. Cao
điểm tình yêu Thiên Chúa đối với nhân lọai được thể hiện bằng việc trao phó Con
trên thập giá. Thư thứ nhất của thánh Gio an còn nói rõ ràng hơn: “Tình yêu cốt
ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu
thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga
4,10).
Được sống: sứ mạng của Con thiết yếu hướng đến sự
sống của chúng ta. Hành động của Ngài được nhấn mạnh một cách đặc biệt; trước
tiên bằng cách phủ định (“không chết”), rồi sau đó khẳng định (“có sự sống đời
đời”). Cả hai cách diễn tả soi sáng cho nhau; mục đích không nhằm đưa chúng ta
xa rời cuộc sống thể lí, nhưng giúp chúng ta đi vào một cuộc sống nơi đó không
còn bị sự chết đe dọa nữa.
Được cứu độ: điểm thứ hai trong sứ mạng của Con là
để cứu độ trần gian. Ở đây cũng có cách diễn tả kép. Hoặc là án xử hoặc là ơn cứu
độ. Nhưng mục tiêu mà Thiên Chúa nhắm đến khi trao phó Con của Người hoàn toàn
có tính cách tích cực: không phải để lên án, nhưng để cứu độ.
Lên án và cứu độ, cả hai từ soi sáng cho nhau: án
xử theo đó người ta không được cứu thoát, là án xử trừng phạt. Ơn cứu độ là sự
giải thoát khỏi tội lỗi và khỏi các hậu quả của nó, khỏi tất cả những gì tách rời
khỏi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến để chúng ta có thể quay trở
về với tình yêu của Người và có sự sống trong Người.
Ai tin vào: Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ và ban
phát không giới hạn trong Con độc nhất của Người (3,14.18). Người không bắt buộc
ai, nhưng để hưởng nhờ ơn cứu độ người ta phải tin. Tin, theo nghĩa tuyệt đối
(x. Mc 16,16) có nghĩa là tin “vào danh của Con Một của Thiên Chúa”. Sự gắn bó
với “danh” Chúa Giê su, nghĩa là vào bản thân Ngài, chính là đức tin chân thật
hoàn toàn ngược lại với đức tin không hoàn hảo của nhiều thính giả (2,24) và đặc
biệt của ông Ni cô đê mô (3,2). Ai từ khước tin, là từ chối ơn cứu độ mà Thiên
Chúa ban cho họ.
Ánh sáng đã
đến thế gian: cách diễn tả nầy qui chiếu đến lời Tựa (1,5). Tuy nhiên ở đây ý tưởng
phong phú hơn nhờ lời giải thích tại sao con người đã “chuộng bóng tối hơn”. “Bởi
vì hành động của họ là gian ác”. Ở đây chúng ta đối nghịch với phái ngộ giáo mà
nhiều lần người ta gán cho Ga. Thật vậy khuynh hướng nầy cho rằng ơn cứu độ chỉ
hệ tại ở sự hiểu biết (gnosis) mạc khải, bất kể những cố gắng luân lí và mọi cuộc
sám hối trở về.
Đến cùng ánh sáng: Khởi sự trong đêm tối (3,2), cuộc
đàm thoại khép lại với một ám chỉ đến ánh sáng. Đó là một kiểu dụ ngôn: ai làm
sự lành thì không sợ ánh sáng ban ngày; nhưng ánh sáng thật, ánh sáng mà khi đến
gần người ta không ngần ngại, là chính Con Thiên Chúa, ánh sáng đã đến thế
gian. “Sống theo sự thật”, kiểu nói nầy không có ý nghĩa luân lí cho dù đó là
cách giải thích thông thường mà người ta gán cho nó. Sự thật là chương trình của
Thiên Chúa vừa được nhắc đến. Sự thật là điều cần phải toả sáng trong chính cuộc
sống của mình, chính là Chúa Giê su Ki tô.
SỨ ĐIỆP
Nhìn vào cuộc đời đầy dẫy những bất công, chúng ta
không khỏi bị sốc, và không ít lần đã đặt câu hỏi: Thiên Chúa của chúng ta ở
đâu? Ngài đang làm gì? Ngài còn nhớ hãy đã quên chúng ta rồi?
Các bài đọc ngày chủ nhật hôm nay gặp chúng ta
trong những vấn nạn trên và mang lại cho chúng ta một sứ điệp hi vọng: “Thiên
Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi đã sai Con một đến”. Trong Tin mừng thánh
Gioan, điều mà Chúa Giê su gọi là “thế gian” khi thì có nghĩa là toàn thể tạo
thành, khi thì có nghĩa là nhân loại, lúc chỉ những thế lực chống lại Thiên
Chúa. Nhưng trong trường hợp ở đây, Đức Ki tô nói với chúng ta về tình yêu bao
la mà Thiên Chúa mang đến cho tạo thành và cho tất cả mọi người. Ngài yêu thương
tất cả, tất cả mọi người không trừ ai, cả những người chống đối và bất trung nhất.
Khi ban cho chúng ta Con chí ái của Ngài, Cha đã ban cho chúng ta tất cả. Ngài
dấn thân hoàn toàn cho ơn Cứu độ thế gian. Ngoài ra, danh xưng Giê su có nghĩa
là: “Chúa cứu độ”. Và hôm nay, Ngài nhắc chúng ta rằng Ngài không đến đển lên
án nhưng để cứu thế gian.
Nhưng Ngài cứu chúng ta khỏi điều gì? Chiến tranh ư?
Ô nhiểm ư? Các thiên tai ư ? Bạo lực ư ? Thất nghiệp ư ? Rõ
ràng, chúng ta thấy tất cả các tai ương đó và nhiều cái khác tiếp tục đổ ập xuống
thế gian. Chúng ta cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta, nhưng đừng quên
nhìn nhận trách nhiệm của từng người chúng ta trong việc để cho sự ác lan tràn.
Khi chúng ta thiếu khôn ngoan, khi chúng ta không sống như những người có trách
nhiệm, chúng ta chỉ phải nhìn nhận mình có lỗi, vì Thiên Chúa không có trách
nhiệm về những sai lầm của chúng ta.
Và một ngày nào đó, ai trong chúng ta cũng nhận ra
rằng chính mình đã được bảo vệ mà không hề biết ? Hãy nhớ lại những tai ương
hay tai nạn mà chúng ta đã may mắn được che chở và thoát nạn. Nhưng điều chính
yếu lại quan trọng hơn. Tin mừng nói với chúng ta về ơn Cứu độ vĩnh viễn mà
Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta: « Tất cả những ai tin vào Ngài được sự sống
đời đời ». Đức Ki tô đã đến chiến thắng trên sự dữ và sự chết để chúng ta
được tham dự vào sự sống của Ngài ngay từ bây giờ và mãi mãi.
Để chúng ta hiểu điều đó, tin mừng Thánh Gioan kể
cho chúng ta nghe một biến cố đã xảy ra nhều thế kỉ trước, trong cuộc Xuất
Hành. Người Híp pri lại một lần nữa càm ràm chống lại Thiên Chúa. Họ đã bị rắn
lửa cắn và nhiều người đã chết. Bấy giờ họ mới biết rằng mình bị phạt vì đã phạm
tội. Thế là họ chạy đến Mô sê nài xin ông can thiệp với Thiên Chúa. Ngài truyền
cho ông Mô sê cho đúc con rắn đồng và treo trên lên đầu một cây cột, để ai bị rắn
cắn mà nhìn lên sẽ được cứu thoát. Mới nhìn, chúng ta tưởng là phù phép; nhưng
thực sự không phải thế. Đó là một hành vi đức tin vào Thiên Chúa độc nhất. Theo
ngôn ngữ kinh thánh, « nhìn lên » có nghĩa « thờ phượng ».
Khi nhìn lên con rắn, người ta thờ phượng Thiên Chúa vì tin rằng mình sẽ được
Ngài cứu thoát.
Hôm nay, thánh Gioan mời gọi chúng ta nhìn lên
thánh giá. Chúng ta phải dám nhìn lên đấng chịu đóng đinh và thờ lạy Ngài. Nhìn
về Đức Ki tô Cứu độ là một cái nhìn đức tin, một cái nhìn đầy tin tưởng và tin
yêu. Khi hướng về Đức Ki tô, chúng ta nhận được sự chữa lành và sự sống. Chính
đó mục tiêu của Mùa Chay là thời gian sám hối và trở về với Thiên Chúa. Điều đó
rất quan trọng, vì rất thường chúng ta có khuynh hướng hay bị cám dỗ nhìn nơi
khác, nhưng rốt cục, chúng ta không thấy gì. Chúng ta tưởng tìm được hạnh phúc,
nhưng thường chỉ có thất vọng và trống rỗng. Vậy chúng ta phải lắng nghe lại lời
mời gọi của Thiên Chúa: « Hãy hết lòng trở về với Ta ».
Như người Híp pri, cuộc sống khó khăn khiến chúng
ta nghi ngờ ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho thế gian. Hằng ngày, chúng ta phải đối
đầu với mọi sự dường như đang đi vào chỗ bế tắc.Nhưng Tin
mừng nhắc chúng ta không được bi quan. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta tất cả mọi
sự để thế gian nầy được cứu thoát. Nhưng Ngài không thể cứu chúng ta mà không
có chúng ta. Chính chúng ta phải chiến đấu chống lại sự giả dối và sữ dữ để Ánh
sáng của sự Sống chiếu giải trong chúng ta và trên thế giới.
Trong thế giới đầy xáo trộn và bạo lực của chúng
ta hôm nay, hãy học nhìn lên những dấu chỉ của Sự sống chiến thắng trên sự chết,
để nổ lực dấn thân vỉ một thế giới công bằng và liên đới hơn. Ngang qua tất cả
những điều đó, chính sự sống đang dâng trào. Cũng giống như những chồi non báo
hiệu một mùa xuân mới.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Sử biên niên là sách gì?
THƯA: Sách Sử biên niên gồm hai quyển, thuộc loại
sách Sử Cựu Ước sau thời lưu đày, sử dụng tư liệu trong các Sách Thánh và nhiều
sách khác để viết lại lịch sử Ít ra ên nhằm giúp cộng đồng Do thái tìm lại gốc
rễ của mình và nhận ra mình đang sống cùng một lịch sử thánh như các thế hệ trước
lưu đày.
2. HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bài đọc một trích từ những trang cuối cùng của
sách Sử biên niên 2 (và của Bộ Kinh Thánh Híp pri), ghi lại những biến cố xảy
ra ở thế kỉ thứ 6-5 vào lúc cuối thời quân chủ. Mọi thành phần Dân Chúa đều đã
phạm tội: từ đầu mục tư tế cho đến người dân đã chạy theo những ngẫu tượng của
ngoại bang. Họ đã làm hoen ố đền thờ Chúa và xúc phạm Danh Thánh Người. Sau nhiều
lần sai các sứ giả mời gọi họ sám hối, nhưng họ vẫn làm ngơ, trái lại còn ra
tay giết chết các tiên tri. Nên Thiên Chúa buộc lòng phải trừng phạt cho dân đi
lưu đày để họ khám phá lại những hồng ân của Thiên Chúa.
3. HỎI: Tác giả ghi lại các biên cố ấy để làm gì?
THƯA: Tác giả tìm cách hiểu về các biến cố đã xảy
ra: tại sao Thiên Chúa là Đấng trung thành với giao ước lại để cho Dân Ngài phải
lầm than như thế?
4. HỎI: Tác giả đọc lại các biến cố nào?
THƯA: Tác đọc lại ba biến cố lớn sau đây: tội lỗi
của nhà Ít ra ên dẫn đến sự sụp đổ của nền quân chủ, hai là biến cố lưu đày, và
ba là chiếu chỉ cho phép người lưu đàyhồi hương của vua Ky rô.
5. HỎI: Câu 14 nói đến điều gì?
THƯA: Các câu 12-14 nói đến đời sống tội lỗi và bất
trung của Ít ra ên là nguyên nhân gây ra việc thành Giê ru sa lem bị triệt hạ
và dân thành bị lưu đày Ba bi lon. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với
Giao Ước, không ngừng gửi các tiên tri đến vì Ngài muốn tất cả được cứu độ.
6. HỎI: Mục đích việc trừng phạt của Thiên Chúa là
gì?
THƯA: Thiên Chúa bừng bừng nổi giân vì dân Israên
phạm tội bất trung với Ngài. Ngài trừng phạt họ nặng nề bằng cách phát lưu họ nơi
đất khách quê người chính là để họ nhận ra tội mình đã phạm, sám hối và quay trở
về với Ngài. Hình phạt của Thiên Chúa luôn có tính cách điều trị và chữa lành.
7.
HỎI: Hình phạt lưu đầy xảy ra vào đời Vua nào?
THƯA: Vào thời Vua Xít ki gia hu. “Vua đã làm điều
dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của vua, và không chịu hạ mình xuống trước mặt
ngôn sứ Giê-rê-mi-a là người đã nói nhân danh ĐỨC CHÚA” (Sb 2, 36,12).
8. HỎI: Tiên tri Giê-rê-mi-a đã nói gì?
THƯA: Giê-rê-mia chỉ thực hiện vai trò tiên tri là
không ngừng nhắc lại Luật của Thiên Chúa và hăm dọa dân bằng những hình phạt nặng
nề nếu họ không chịu sám hối trở về với Ngài. Và ông đã vô cùng thất vọng khi
thấy các biến cố ông cảnh báo đã xảy ra.
9. HỎI: Sau khi đã chữa lành, Thiên Chúa đã làm gì
cho dân Ngài?
THƯA: Sau khi dùng hình phạt để chữa trị và thanh
luyện cho dân, Thiên Chúa đã thương xót và tha thứ cho họ. Ngài chuẩn bị mọi phương
thế cần thiết để đưa dân Ngài từ đất lưu đày trở về cố hương.Bài đọc thứ nhất
cho thấy Ngài đã dùng bàn tay một người ngoại đạo là vua Ky rô Ba tư cho phép
Dân Israên trở về tái thiết quê hương. Đó là cách Ngài tỏ cho thấy tình thương
tha thứ của Ngài.
10. HỎI:Vua Kyrô Ba tư đã làm gì?
THƯA: Khi vừa lên ngôi, vua Ba tư (538-529 tr CN) truyền
cho những người lưu đày trở về quê hương.
Đó là một điềukhông ai hi vọng cũng không dám mơ đến. Vì thế, người đời sau coi
ông như là dụng cụ trong bàn tay của Thiên Chúa.
11. HỎI: Câu 21 nói lên điều gì?
THƯA: Câu 21 cho thấy suy tư của tác giả về các biến
trên: “Thế là ứng nghiệm lời ĐỨC CHÚA phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng:
cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá,
nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn”. Sự kiện ấy đã được tiên tri Giê rê mia
báo trước: vì trái đất không giữ trọn bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, nên
sẽ bị phạt bằng cách không còn ai hiện diện và làm việc trong khoảng 70 năm ở
đó nữa.
12. HỎI: Biến cố thứ ba là gì?
THƯA: Biến cố thứ ba quan trọng nhất là chiếu chỉ
Vua Ky rô (536 tr CN) cho phép những người lưu đày trở về cố hương.
13. HỎI: Tại sao nói rằng Vua Ky rô là dụng cụ
trong bàn tay của Thiên Chúa?
THƯA: Chương trìnhcủa Thiên Chúa được hoàn thành một
cách lạ lùng: chính nhờmột người ngoại là vua Ky rô mà Thiên Chúa giao phó cho
việc tái thiết thànhGiê rusa lem và phụchưng dântuyển chọn. “ĐỨC CHÚA tác động
trên tâm trí Ky-rô, vua Ba-tư” để ông ra chiếu chỉ: “Chính Người trao cho ta
trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai
trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ ở với
họ, và họ hãy tiến lên. ..!” (Sb2 36,23).
14. HỎI: ‘Bảy mươi năm’ (c.21) có nghĩa gì?
THƯA: Tác giả nói ‘bẩy mươi năm’ là qui chiếu đến
tiên tri Giê rê mia khi ông nói đến thời gian lưu đày ở Babilon (Gr 29,10). 70
không phải là con số thực (vì lưu đày chỉ kéo dài khoảng 60, 50 năm) mà chỉ một
thời gian dài gần một đời người.
15. HỎI: Bài đọc một nhấn mạnh đến điểm nào?
THƯA: Bài đọc một nhấn mạnh đến sốphận của đền thờ
Giê ru sa lem. Đền thờ là dấu chỉ cho sự hiện diện của Thiên Chúa nên khi Đền
thờbị tục hóa bởi sự bất trung của Dân Chúa đối với Giao Ước, Ngài không còn
hiện diện nữa cho đến khi đền thờ được tái thiết. Thiên Chúa, Đấng đã kí Giao ước
với dân vẫn trung thànhdù Dân của Ngài tỏ ra bất hiếu bất trung.
16. HỎI: Tác giả bài đọc một muốn gửi đến sứ điệp
gì?
THƯA: Tác giả muốn khẳng định hai điều quan trọng
về đức tin: một là dù Dân Ngài tội lỗi và bất trungThiên Chúa vẫn luôn là Thiên
Chúa của cha ông, và Ngài làm mọi sự để ngăn cản họ rơi xuống vực thẳm. Hai là
khi dân rơi xuống vực thẳm thì Ngài tìm mọi cách để đưa họ lên,vì không có gì
mà Thiên Chúa không làm được.
17. HỎI: Bài đọc thứ nhất đã được tiếp nối trong
bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Tình thương của Thiên Chúa đã nhiều lần được
bày tỏ qua các biến cố trong lịch sử, và cuối cùng đã hoàn toàn được biểu lộ
trong một người, một gương mặt, đó là Chúa Giê su Ki tô. Ngài là hồng ân trọn vẹn
của Thiên Chúa, Ngài là dấu hiệu của tình thương, là chính tình thương sâu thẳm
bao la của Thiên Chúa.
18. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Chương
2 tin mừng Gio an đề cập đến những điều mới mẻ mà Chúa Giê su mang đến trần
gian khi bắt đầu công cuộc rao giảng: rượu mới (2,1-11), đền thờ mới (2,13-22),
phụng tự mới (4)... Có một số người Do thái đã tin vào Ngài (2,23-25). Nhưng trước
hết phải canh tân toàn diện con người, điều kiện căn bản để được chấp nhận vào
trật tự mới (chương 3). Đây là chủ đề cuộc nói chuyện giữa Chúa Giê su và ông
Nicôđêmô. (3,1-21), và cũng là ngữ cảnh gần của đoạn tin mừng của chúng ta.
19. HỎI: “Giương cao Con Người lên” có ý nghĩa gì?
THƯA: Khi nói đến việc Con Người được giương cao
lên, Thánh Gioan không có ý nói đến việc Chúa Giê su thăng thiên, nhưng muốn ám
chỉ đến việc Ngài bị treo trên thập giá, một việc mà ngài coi như một lễ đăng
quang, một cuộc hiển linh của Chúa Ki tô, có sức thu hút tất cả mọi người đến với
Ngài.
20. HỎI: Với điều kiện nào thì nhìn lên Con Người
được giương cao trên thập giá mới được cứu độ?
THƯA: Cũng như xưa con rắn đồng đã cứu dân Híp pri
với điều kiện họ nhìn lên nó với niềm tin rằng đó là dấu chỉ của lòng nhân hậu
và quyền năng cứu thoát của Thiên Chúa. Thì nay, ai tin tưởng nhìn lên Chúa Giê
su, Con người bị treo cao trên thập giá là dấu chỉ ơn cứu rỗi và sự sống cho
loài người, cũng sẽ được cứu độ.
21. HỎI: “Sự sống đời đời” trong tin mừng thánh
Gioan có nghĩa gì?
THƯA: Trong Tin mừng thánh Gioan, “sự sống đời đời”
chỉ ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa ban cho những ai tin vào Ngài qua lời Con của
Ngài. Sự sống đời đời nầy không những có ý nghĩa như sự sống vĩnh cửu mà còn là
sự sống đang diễn ra nơi những ai tin: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi:
Ai nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời..” (Ga 5,24).
22. HỎI: Tình yêu Thiên Chúa biểu lộ qua ơn Ngài
ban cho nhân loại. Ơn đó là gì?
THƯA: Ơn Thiên Chúa ban tặng cho loài người trước
tiên biểu lộ qua việc sai Chúa con đến trong thế gian qua việc nhập thể. Rồi kế
đến, qua việc gương cao Chúa Con trên thập giá, trong mầu nhiệm chết và sống lại.
23. HỎI: Lời Chúa mang lại cho chúng ta sứ điệp gì
trong mừa Chay nầy?
THƯA: Lời Chúa hôm nay cho ta thấy lịch sử của Dân
Chúa và của từng người chúng ta là lịch sử của tội lỗi và ân sủng, của bất
trung và tha thứ, của phản bội và yêu thương. Chính trong tội lỗi nặng nề mà
con người được Thiên Chúa tỏ cho thấy Ngài yêu thương vô cùng, như lời thánh
Phao lô: “Nơi đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ân sủng càng chan chứa” (Rm 5,20).
Tình yêu thương ấy thể hiện bằng sự kiên trì, kêu gọi, trừng phạt, thương xót
và tha thứ. Mùa Chay là thời gian hồng phúc để lắng nghe và cảm nghiệm được tiếng
gọi mời của tình yêu nhân hậu ấy. Chúng ta hãy cầu xin cho được ơn khiêm tốn
đáp lại lời yêu thương của Thiên Chúa và can đảm quay trở về với Ngài, chuẩn bị
mừng ngày cùng được sống lại với Đức Ki tô phục sinh trong đời sống mới.