Trang Chủ > Suy Niệm > Mùa Chay

CHỦ NHẬT 4 CHAY

9CADQDOKMCANOF3LJCASQ9JH8CAQRKAQSCAKPP5EHCA3LSZ2UCAR6G5FECA5I5JZECAXY9FOPCA89EIX6CAEGK6OWCABMGJBYCAPTNMI3CAX1GW6CCADXVRVECADTO8O5CA0HIIPDCAW0TNKACAKCMGI0.jpgChúng ta được mời gọi ca tụng lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chỉ có ai đang khát mới cảm nghiệm được  vị ngọt của Nước, và chỉ có người ý thức lỗi lầm của mình đối với đấng mà mình yêu mến, mới khám phá sự vĩ đại của ơn tha thứ. Tất cả chúng ta là tội nhân. Bi kịch ở chỗ chúng ta không còn nhận ra mình là tội nhân. Vì đóng kín trong chính mình, trong những ước mơ giới hạn của mình, trong những thèm khát của mình, chúng ta không biết điều gì đã cống hiến cho chúng ta, và điều gì chúng ta đang thiếu.

Sách Giô suê 5,10-12

Việc người Híp pri vào Đất hứa trong thực tế chỉ là một giai đoạn trong cuộc hành trình dài hướng về hạnh phúc chân thật. Đi vào Đất hứa là một dấu chỉ của Thiên Chúa. Nó luôn mang lại cho chúng ta niềm xác tín rằng Thiên Chúa vì lòng Thương xót luôn hoàn thành những gì Người đã hứa.

Thánh Vịnh 33

Đây là Thánh ca chúc tụng Thiên Chúa đã giải thoát những ai biết hướng về Người trong ngày cùng khốn. Người ta cũng cho rằng đây là lời chúc tụng thích hợp với Bí Tích Thánh Thể. Nhìn về phía Chúa, thì được chiếu sáng, còn Ăn Chúa thì sao?

Thư 2 gửi tín hữu Cô rin tô 5, 17-21

Đối với Phao lô, Đất hứa đích thực là thế giới nội tâm mới được kiến tạo từ cuộc khám phá Tình yêu hay thương xót của Thiên Chúa, được biểu lộ trong Đức Giê su Ki tô. Vì thế thật là một niềm vui vĩ đại cho ngài vì được làm Sứ Giả của Đức Ki tô để mạc khải thực tại ấy được ban cho tất cả mọi người.

Tin mừng Lc 15,1-3.11-32

NGỮ CẢNH

Sau khi đã đưa ra những điều kiện cho những ai muốn đi theo làm môn đệ (14,25-35), Chúa Giê su dùng một số dụ ngôn để biện minh cho thái độ của Ngài đối với những người tội lỗi nhằm trả lời cho những lời trách móc của các người Biệt phái và kinh sư.

Chương 15 gồm 3 dụ ngôn, tất cả nhằm đề cao tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân qua các xử thế đặc biệt và lời kêu gọi hóan cải của Chúa Giê su.

TÌM HIỂU

Thu thuế: ở các câu 5,30 và 7,34 chúng ta đã thấy những người thu thuế bị ghép chung với hạng người tội lỗi, ấy là vì người thu thuế lúc bấy giờ bị xếp vào hàng những kẻ tội lỗi công khai và bị lề luật do thái loại ra khỏi ơn cứu rỗi. Họ đến với Chúa Giê su để nghe Ngài với tư cách những môn đệ đích thực.

Xầm xì: người biệt phái và kí lục xầm xì vì họ xét đoán theo tinh thần luật tinh sạch của họ. Thật vậy, khi hòa đồng cùng với người tội lỗi và ngồi ăn uống với họ, Chúa Giê su đã mắc ô uế theo lề luật. Họ cũng xì xầm theo quan niệm về Thiên Chúa của họ: chung đụng với bọn người tội lỗi đó là không xứng đáng với danh nghĩa một người được Thiên Chúa sai đến. (x. trường hợp ông Phê rô trong Cv 11,3).

Dụ ngôn: từ nầy ở số ít dù sau đó tác giả đưa ra tới ba dụ ngôn ! Có lẽ lúc tiên khởi, chỉ có một dụ ngôn mà thôi.

Mất: chuyện người mục tử chăm sóc cho tất cả bầy chiên thì không có gì lạ, điều lạ là việc ông ta dám bỏ 99 con để tìm cứu lấy một con đi lạc !

Hình ảnh ấy rất quen thuộc trong Cựu Ước: mục tử chăn dắt Israel chính là Thiên Chúa, hết lòng thương yêu những con chiên đi lạc, và không ngừng đi tìm kiếm chúng (Is 40,11; Gr 23,1-4; Ed 34; Tv 23). Chúa Giê su tự áp dụng cho mình tước hiệu ấy (Ga 10,11-16). Điều đó cho thấy Ngài xử sự đối với những người Biệt phái không những như một mục tử hết lòng tận tuỵ, mà còn như chính Thiên Chúa.

Xin chung vui với tôi: điều gây ngạc nhiên là một con chiên mà lại gây sự chú ý của mọi người! Niềm vui của Thiên Chúa và con người là một trong những chủ đề chính yếu của ba dụ ngôn (x.15,7.9.10.32).

Vậy: Chúa Giê su rút ra giáo huấn của ví dụ bằng cách chuyển sang chủ đề về sự đối lập giữa « người công chính - người tội lỗi » như trong đoạn 5,30-32. Trong khi Mt áp dụng giáo huấn cho trách nhiệm của Hội Thánh đối với những kẻ bé mọn, thì Luca lại tuyên dương lòng từ ái của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, lòng từ ái đã được Chúa Giê su làm gương khi đón tiếp những người thu thuế.

Vui mừng: làm sao con người chúng ta có thể hiểu được sự vui mừng của Thiên Chúa ? Người tội lỗi khi đã được tha thứ sẽ kinh nghiệm về một vì Thiên Chúa mạc khải dung nhan đích thực của Người. Họ nhận ra Người là một vì Thiên Chúa cứu độ đầy lòng nhân ái, đã tạo trong họ một con tim mới. Thiên Chúa vui mừng vì sự nhận biết ấy. Ngược lại, người công chính tưởng rằng mình có thể tự cứu lấy chính mình thì lại có một ý tưởng sai lệch về Thiên Chúa. Thiên Chúa của họ thưởng phạt theo sự công minh chính trực; và dĩ nhiên như thế thì không thể hòa hợp với một vì Thiên Chúa là Tình yêu và Tự đo. Do vậy khi có một tội nhân trở về thì trên trời vui mừng hơn.

Người công chính: đây không phải là người công chính đúng nghĩa, nhưng chỉ người tin rằng mình không cần phải sám hối. Chúng ta nhớ lại câu truyện của ông Simôn biệt phái và người nữ tội nhân (7,36-50). Chúa Giê su muốn biện minh cho cách hành động của mình và đồng thời, cảnh tỉnh những đối thủ của Ngài, bằng cách nhắc cho họ sự phán xử của Thiên Chúa.

Phụ nữ: sự thay đổi thường thấy nơi sách Tin Mừng Luca: sau người đàn ông, thì tới người đàn bà; sau khung cảnh đồng áng, giờ tới một bà nội trợ (x.13,18-21). Ngoài ra ta hãy chú ý đến sự giảm dần số lượng trong ba dụ ngôn nầy: 100 con chiên, 10 đồng bạc, và một đứa trong hai đứa con.

Mừng vui: ở đây tác giả không đối chiếu hai hạng người tội lỗi và công chính nữa, mà chỉ đơn thuần xác định rằng mọi người tội lỗi trở về điều làm cho Thiên Chúa vui mừng. Sám hối không chỉ bao hàm trong việc thay đổi đời sống, mà còn là việc thay đổi ý tưởng, từ một vì Thiên Chúa chinh phục đến một vì Thiên Chúa tự hiến ban chính mình một cách nhưng không. Chỉ như thế, tội nhân mới có một sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa, và một kinh nghiệm về lòng nhân ái của Người. Và đó là điều làm vinh danh Người.

Người con thứ: chỉ có Luca kể lại ví dụ nầy, gồm hai phần nhằm nêu bật cung cách hành xử của người Cha, trước hết đối với đứa con thứ (15,11-24) rồi đến đứa con cả (15,25-32). Cả hai là hình ảnh của hai hạng người đang nghe Chúa Giê su nói: người con thứ tương ứng với những người thu thuế, còn phản ứng của người con cả tượng trưng cho những người biệt phái.

Con chiên đi lạc và đồng tiền bị mất là do lỗi của chủ nhân của chúng, trái lại đứa con hoang đàng bỏ nhà đi là do sự quyết định tự do của nó. Tội là một hành vi tự do của con người.

Đứa con thứ đòi phần gia tài thuộc về nó, tức là một phần ba gia tài theo luật do thái. Rồi bỏ cha bỏ nhà mà đi hoang cho đến khi hết tiền. Tội là một sự đòi hỏi được sống độc lập, đồng thời là một sự vô ơn bất nghĩa, bất tín bất trung xúc phạm đến Thiên Chúa, đấng mà người ta nhận lãnh mọi ơn lành.

Đang là một người con hạnh phúc trong nhà Cha, giờ trở thành một kẻ làm tôi cho người khác. Tội làm cho con người trở thành một tên nô lệ.

Thôi ta đứng lên, đi về: chính sự túng cực nghèo khổ khởi đầu cho việc trở về nhà Cha (x. Hs 2,8-9). Bắt đầu là suy nghĩ, so sánh tình trạng khốn khổ hiện giờ với tình trạng sung sướng thuở trước, sau đó là quyết định trở về.

Cha: cách hành xử của người Cha cho thấy tình yêu của Thiên Chúa: chính ông chạy đến, chứ không phải là đứa con; không một lời rầy la, cũng chẳng để cho đứa con có giờ xưng thú hết lỗi lầm, ông ra lệnh mang ra những gì quí báu nhất cho con mình. Ông muốn chứng tỏ rằng nó không còn là một người tôi tớ nữa, mà thật sự là một người con đáng được yêu thương kính trọng.

Người Cha ấy là hình ảnh của Thiên Chúa, luôn thương yêu và không ngừng chăm sóc những kẻ từ bỏ lìa xa Ngài. Sự tha thứ của Ngài thật là một sự tái tạo, một tạo dựng mới (Tv 51,10-14). Thiên Chúa mừng vui vì những người tội lỗi sám hối (15,7-10).

Người con cả: cử chỉ thái độ của người con nầy là hình ảnh của những người tự cho là công chính, làm trọn các bổn phận của mình, nhưng trong thâm tâm là ghen tương và khinh bỉ đối với người khác: không nhận em mình trở về, cũng chẳng coi trọng cha mình khi vui mừng đón rước đứa con đi xa trở về

Em con đây: lời nói của Cha muốn nối kết hai đứa con như anh em một nhà.

Sống: trong Thánh Kinh, sự sống có nghĩa là ở trong mối tương quan; trong khi không thể thông hiệp với tha nhân và với Thiên Chúa có nghĩa là đang chết (Tv 88,5-9; 115,5-7). Ở đây tương quan con cái và huynh đệ được tái lập, được coi như sống lại.

Dụ ngôn nầy có giá trị ngay trong ngữ cảnh mà Luca đã đặt vào (15,2). Chúa Giê su muốn biện minh cho cung cách hành xử của Ngài đối với những người tội lỗi: Ngài là chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu (10,33-37).

Đồng thời, Ngài mời gọi những người chỉ trích ngài hãy bắt chước tình yêu đó, là tiếp nhận ngay cả những người mà họ khinh bỉ.

Đối với các tín hữu tiên khởi, dụ ngôn còn cho thấy mối bận tâm truyền giáo của Giáo Hội, mong muốn cùng Chúa Giê su đi đến với lương dân để đưa họ vào trong gia đình của Thiên Chúa. Họ cũng đòi hỏi sự khoan dung của người Do thái trở lại, những đứa con cả của lời hứa trong việc tiếp nhận các môn đệ từ dân ngoại trở lại.

SỨ ĐIỆP

Người ta thường gọi bài tin mừng nầy là “dụ ngôn về đứa con trai hoang đàng”. Gọi như thế vừa  không nói hết ý vừa không chính xác. Đây là câu truyện hai đứa con đã xúc phạm đến cha mình, nên có người gọi là dụ ngôn về hai đứa con. Nhưng như thế là quên nhân vật quan trọng nhất trong câu chuyện. Thiết nghĩ, tựa đề thích hợp nhất là “dụ ngôn về người Cha và hai con” hoặc “dụ ngôn về người Cha phung phí”. Thật vậy, chúng ta sẽ thấy ông phung phí quá mức cho từng đứa con của mình, ông đã thật sự phung phí tất cả tình yêu của mình.

Dụ ngôn nầy là câu trả lời của Chúa Giê su cho những lời càm ràm trách móc của các kí lục và người biệt phái. Họ trách Chúa Giê su đã tiếp rước những người tội lỗi và ăn uống với họ. Và nhân đó, Chúa Giê su gửi đến cho chúng ta tin mừng nói về cách xử sự của Thiên Chúa đối với tất cả những tội nhân là chúng ta.

Người con út bỏ đi nhà, rời xa cha nó là biểu tượng cho người tội lỗi công khai. Còn người con cả, cũng không khá hơn. Nó gợi nhớ tất cả những người tự cho rằng mình là người công chính, tự phụ và khinh bỉ người khác. Thật sự, hai người con nầy là hình ảnh biểu trưng cho toàn thể gia đình nhân lọai.

Đối diện với hai người con ấy, là hình ảnh Thiên Chúa Cha. Chúa Giê su mô tả chân dung đích thực của Thiên Chúa, không có một chút gì giống với hình ảnh mà người ta tưởng tượng về Người. Người không phải là một vì Thiên Chúa tìm cách trả thù, mà là một vì Thiên Chúa yêu thương say đắm từng người con cái của mình. Qua từng chi tiết trong câu chuyện nầy, Chúa Giê su đã cho thấy những tình cảm Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nhờ vậy mà chúng ta hiểu tại sao vua Đa vít đã chọn thà rơi vào tay Thiên Chúa hơn là tay con người.

“Con ta nay đã chết mà nay sống lại!”. Qua dụ ngôn nầy, chúng ta thấy người Cha làm đủ mọi cách giúp cho đứa con út của mình sống lại. Nó chết vì đói, đói bánh ăn thì đã hẳn, mà nhất là đói tình yêu. Cử chỉ của Cha thân ái vô cùng. Hằng ngày, ông ngong ngóng, chờ đợi đứa con trở về. Ông chạnh lòng thương con, nên không chờ đứa con tội lỗi đến với mình, nhưng đã chạy tới nó và ôm hôn nó. Thậm chí không để cho nó có thời giờ nói lên lòng hối hận bằng những lời mà nó đã chuẩn bị từ trước.

Ông cũng không có một lời trách móc, cũng không khước từ đứa con mình, nhưng vui mừng khôn xiết vì tìm lại được người con đã mất. Thế rồi ngay lập tức ông truyền mang y phục đẹp nhất cho cậu, dấu chỉ cho thấy nhân phẩm được phục hồi; rồi đeo nhẫn vào tay cậu, như một thứ ấn dấu chính thức tái xác nhận con mình,; rồi xỏ giày cho cậu, đề chấm dứt thời nô lệ của một người đi chân đất. Nhất là ông đã cho tổ chức một bữa tiệc linh đình để mừng đứa con đã chết nay sống lại. Cứ so với những gì cậu con đã làm trước kia, một vài người cho rằng ông ta thật quá phung phí. Nhưng chúng ta đừng quên rằng trang tin mừng nầy muốn nói cho chúng ta biết về lòng quảng đại vô bờ bến của Thiên Chúa đối với những tội nhân là chúng ta.

Đứa con cả cũng được mời gọi sống lại. Dù không bỏ nhà ra đi, nhưng kì thực anh ta cũng đã chết, vì không hiểu gì cả về tình yêu của Cha đối với anh và đứa em của mình. Lòng giận hờn ganh tị đã khiến anh ta không thể chung vui với cha vì đã tìm thấy những gì đã mất. Anh ta từ chối vào nhà trong vì khẳng định rằng không bao giờ bỏ nhà ra đi.

Dù vậy, người Cha cũng không nỗi giận, nhưng ôn tồn thể hiện một cách đối xử thân ái đối với anh ta. Ông ra ngòai gặp anh, ông van nài anh; ông mời gọi anh ta chug vui với mọi người vì đứa em đã mất nay tìm thấy. Sứ điệp thật rõ ràng: không ai có thể là một người con tốt của Thiên Chúa nếu không thực sự là một người anh em tốt đối với người khác. Sự từ khước người khác cũng là một liều thuốc độc cần phải trừ khử khỏi tâm hồn.

Trang tin mừng nầy nói với chúng ta về ơn tha thứ mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người chúng ta. Tất cả chúng ta đều cần đến, những người đã lìa xa cũng như những người còn ở lại dưới mái ấm yêu thương của gia đình. Thật vậy, trong mỗi người chúng ta đều có một góc nghèo hèn, tăm tối, phản bội và yếu đuối. Đứa con cả là mẫu người ngạo mạn và kiêu căng, ghen ghét. Con đứa con út đặt chúng ta đối diện với những bất trung, những tính mê tật xấu từ lâu bám rễ trong cuộc sống chúng ta. Bằng cách nầy hay cách khác, tội lỗi chính là sự trốn chạy khỏi nhà và tình yêu của Cha.

Như đứa con út, tất cả chúng ta có thể nói rằng: “Tôi đã phạm tội chống lại trời và chống lại cha”. Nhưng nếu chúng ta tự nhận mình là kẻ có tội, thì trước tiên không phải chúng ta cáo tội chúng ta; nhưng là nhận ra điều sai lỗi mà chúng ta đã làm cho Thiên Chúa, cho tạo vật, cho anh em và cho chính chúng ta.

Tất cả chúng ta được mời gọi lãnh nhận ơn Thiên Chúa tha thứ. Đó là trở về cùng Đấng đã đến với chúng ta trước, và ôm chúng ta vào lòng. Chấp nhận ơn tha thứ, trước tiên là để bản thân mình được Cha tiếp nhận và yêu mến. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta được chờ đợi để sống lại và tìm lại phẩm cách cao quí là con cái Thiên Chúa. Khi chúng ta tiếp nhận bí tích hòa giải, đó là cách chúng ta trở về với Thiên Chúa không ngừng yêu thương và đặt hết tin tưởng vào chúng ta. Và trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng nơi bàn tiệc Nước Trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa biến chúng ta thành những chứng nhân cho tình yêu và lòng thương xót của Người.

ĐÀO SÂU

1. HỎI: Sách Giô suê là sách gì?

THƯA: Chúng ta đều biết ông Mô sê đã qua đời và được chôn cất trên núi Nê bô, trước khi Dân Ít ra ên vào được Đất Hứa. Vì thế Giô suê người tôi tớ và kế vị ông chứ không phải ông đã đưa dân vào Đất Hứa. Sách Giô suê thuộc loại sách sử, kể lại cuộc xâm chiếm đất hứa của dân Ít ra ên (các chương 1-12), khởi từ sông Giô đa nô, và sau đó là cuộc phân chia đất đai giữa các bộ tộc (các chương 13-21). Tuy nhiên, Kinh Thánh viết lịch sử không nhằm mục đích kể lại lịch sử mà chỉ nhắm đưa ra những bài học về lịch sử. Vì thế, sách Giôsuê nhắc lại kì công Thiên Chúa đã làm cho dân Ít ra ên là để khuyến khích họ trung thành với Người.

2. HỎI: Bài đọc một có nội dung như thế nào?

THƯA: Sau một thời gian dài lang thang trong sa mạc, dân Ít ra ên đạt mục tiêu cuộc hành trình của mình là đặt chân lên Đất Hứa. Lần đầu tiên họ mừng lễ Vượt qua bằng hoa màu của đất Hứa. Qua bài đọc một, tác giả nhắc nhở đồng bào mình hai điều: thứ nhất Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi đất Ai cập, và thứ hai, nếu Thiên Chúa đã giải thoát khỏi Ai  cập chính là đề ban cho chúng ta phần đất mà Ngài đã hứa với cha ông. Tất cả mọi sự chúng ta đều lãnh nhận từ thiên Chúa, và khi chúng ta quên Ngài chúng ta sẽ rơi vào những hoàn cảnh không lối thoát.

3. HỎI: Đối với các tín hữu tiên khởi, Giô suê là tên gọi lên điều gì?

THƯA: Trong tiếng Híp pri, tên gọi Giê su cũng là Giôsuê. Những người tín hữu đầu tiên đã thích thú so sánh như thế để xác tín rằng cuộc vượt sông Gio đan vào đất Hứa tự do là hình ảnh Phép Rửa trong sông Gio đan, đánh dấu việc họ đi vào vùng đất tự do thực sự.

4. HỎI: Sự thay đổi thức ăn có nghĩa gì?

THƯA: Sự thay đổi thức ăn có ý nghĩa quan trọng. Nơi đứa bé sơ sinh, thời gian dứt sữa để dùng một dạng thức ăn khác đánh dấu giai đoạn trưởng thành mới. Cũng thế, đối với dân Ít ra ên, việc chấm dứt dùng manna để dùng thổ sản trong xứ là khởi đầu một thời kì mới,  một trang sử mới đã lật qua, một đời sống mới bắt đầu cho dân Ít ra ên.

5. HỎI: Chìa khóa cho bài tin mừng tìm ở đâu?

THƯA: Chìa khóa để hiểu đoạn nầy có lẽ nằm trong những hàng đầu tiên: “người nầy tiếp đón và ăn uống với những người tội lỗi”. Người Pha-ri-siêu rất ý thức về sự thánh thiện của Thiên Chúa và dưới mắt họ, có một sự không tương hợp giữa Thiên Chúa và những người tội lỗi; vậy nếu Chúa Giê su đến từ Thiên Chúa, thì Ngài không thể đồng bàn với người tội lỗi.

6. HỎI: Mục đích của bài dụ ngôn là gì?

THƯA: Chúa Giê su kể lại bài dụ ngôn là để giúp họ khám phá khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa Cha.

7. HỎI: Nhóm người biệt phái  kêu trách Chúa Giê su về những điểm nào?

THƯA: Nhóm người Pha-ri-siêu kêu trách Chúa Giê su vỉ Ngài tiếp đón người tội lỗi và đồng bàn với họ.

8. HỎI: Tại sao trách ChúaGiêsu đón tiếp người tội lỗi?

THƯA: Theo quan niệm của giới Pha-ri-siêu và Luật sĩ Do thái, người thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn Dân Chúa. Họ hiểu sai câu nói: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và chê ghét người tội lỗi, và bắt mọi người cũng phải hiểu và hành động như họ. Nhưng Chúa Giê su đã làm ngược lại khi ân cần đón tiếp người tội lỗi.

9. HỎI: Còn ăn uống với người tội lỗi?

THƯA: Điều phàn nàn thứ hai còn nặng nề hơn: “Ông ta ăn uống với người tội lỗi”. Đối với người thời xưa, ăn uống không chỉ là chung mâm, chung bàn, mà còn là hiệp thông, liên đới với nhau. Vì thế ăn uống với người tội lỗi là muốn hiệp thông với họ. Đó là một điều tuyệt đối cấm kị đối với người Pha-ri-siêu.

10. HỎI: Như vậy, các dụ ngôn trong đoạn nầy nhắm đến mục đích gì?

THƯA: Các dụ ngôn trong chương 15 nhắm mục đích biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giê su đối với những người tội lỗi. Họ cần phải hoán cải, nhưng sự hoán cải không còn là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp. Ngài như người mục tử cất bước đi tìm con chiên lạc chứ không chờ đợi chiên lạc trở về.

11. HỎI: Đâu là điểm chính yếu trong chương nầy?

THƯA: Chúa Giê su mời gọi mọi người chung vui với Thiên Chúa Cha khi có một tội nhân trở về với Ngài. Đó là niềm vui lớn, tương tự như người cha đã mất lạc mất con nay lại tìm thấy.

12. HỎI: Người con cả tượng trưng cho ai?

THƯA: Thái độ và lời nói cho thấy anh ta tượng trưng cho giới Pha-ri-siêu và các Luật sĩ.

13. HỎI: Thái độ người con cả như thế nào?

THƯA: Khi nghe tin em mình vừa trở về và được Cha cho dọn tiệc ăn mừng, người con cả đã vô cùng tức giận và từ chối vào nhà. Anh ta cho rằng cha mình đã xử sự bất công, khiến quyền lợi của anh bị thiệt thòi. Thật giống như người Pha-ri-siêu đã vô cùng căm phẫn trước những gì xem ra bất công đối với họ.

14. HỎI: Anh ta đã nói gì?

THƯA: Trước tiên, anh ta đã tự hào nói về mình, về lòng trung thành của mình đối với cha, giống như thái độ tôn giáo của giới Pha-ri-siêu và Luật sĩ: trung thành làm tôi Thiên Chúa, ra sức lo lắng để đừng bao giờ trái lệnh của Ngài. Rồi anh còn nói đến em mình bằng một giọng vô cùng khinh bỉ, giống như giới Pha-ri-siêu thường hay khinh miệt người khác.

15. HỎI: Người con thứ biểu trưng cho ai?

THƯA: Người con thứ biểu trưng cho người tội lỗi mà theo cái nhìn của người Pha-ri-siêu, trùng khớp với diện mạo của một người ngoại giáo. Sau khi nhận được phần gia tài thuộc về mình, anh trẩy đi xa (vùng ngoại giáo); sống tiêu xài phóng đảng cho đến hết tiền của (chỉ những ngoại giáo mới sống như thế). Và cuối cùng làm nghề chăn heo (nghề của người ngoại bị người do thái khinh miệt).

16. HỎI: Người cha trượng trưng cho ai?

THƯA: Người cha tượng trưng cho Thiên Chúa hân hoan tột độ khi thấy đứa con bỏ nhà ra đi trở về.

17. HỎI: Bài dụ ngôn mạc khải như thế nào về lòng thương xót của Thiên Chúa?

THƯA: Dụ ngôn cho ta biết về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài đã đi tìm gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài. Ngài vui mừng khi một tội nhân trở về, sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi, và không trừng phạt họ. Và cuối cùng ban cho họ một sự thay đổi toàn diện thành một con người mới.

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh_Nt. Thiên Thảo SJP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh _Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh_Lm. Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần Thánh_Lm. Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh_Lm Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần Thánh_Lm Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần Thánh_Nt. Têrêsa Nguyễn Thị Kim Tuyến, OP
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần Thánh_Thầy Phêrô_Maria. Mảnh vỡ. FVP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần Thánh_Lm Giuse Mai Văn Điệp, OP
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần Thánh Năm C_Nt. Maria Nguyễn Thị Quỳnh Tiên, OP

Các bài viết cũ hơn
     SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM C. Nhiều tác giả
     Thứ Bảy tuần III mùa chay năm C: LẠY CHÚA XIN THƯƠNG XÓT CON. Lm Jos Trần Quốc Thắng
     Thứ Sáu tuần III Mùa Chay: LỄ DÂNG MONG ĐỢI. Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng, ĐMTT
     SUY NIỆM LỜI CHÚA THỨ NĂM TUẦN III MÙA CHAY. Nt. Mai Đệ Liên
     Suy niệm Lời Chúa thứ tư tuần III Mùa Chay: NGƯỜI GIỮ LUẬT. Nữ Tỳ Thánh Thể.
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BA TUẦN III MÙA CHAY: THA THỨ. Nt. Anh Thư
     Suy niệm Tin Mừng thứ 2 tuần III Mùa Chay: "Số đông không phải là chân lý". Minh Thùy
     SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C. Nhiều tác giả
     SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C. Lm. Phaolo Nguyễn Văn Đông
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BẢY TUẦN II MÙA CHAY C. Lm D.Nam