LỄ HIỆN XUỐNG A
SỐNG! Được sống sung mãn và mãi mãi! Đó là ước vọng bản năng của con người từ khi được tạo dựng. Tội lỗi đã giam hãm con người khiến cho những cố gắng của họ thất bại. Mạc khải Ki tô giáo khẳng định cuộc sống đích thực là Thánh Thần, là quà tặng ân sủng Thiên Chúa ban cho chúng ta. Lễ Hiện Xuống, lễ của Thánh Thần đánh dấu điểm đến của Phục sinh. Chính từ biến cố ấy mà Thiên Chúa bắt đầu việc tái tạo canh tân thế giới.
Sách Công vụ 2, 1-11
Hiện Xuống là một điểm khởi hành. Phần tiếp theo trong Công vụ các tông đồ nhằm mục đích cho thấy sự hiện diện của Thánh Thần lan truyền bành trướng trong khắp thế gian. Qua đó, công việc tái hợp nhận loại, được loan báo từ lâu, nay được thực hiện nhờ những tín hữu được Tình yêu Thiên Chúa cảm biến.
Thánh Vịnh 103
Người Do thái ca ngợi Thần Khí Thiên Chúa, nguồn sự sống và thiên nhiên. Đối với người Ki tô hữu, Thần Khí ấy là nguồn đích thực cho việc tái tạo thế giới phản ánh vinh quang Thiên Chúa.
Thư gửi Côrintô 12, 3b-7.12-13
Các ơn ban và đặc sủng chỉ có nghĩa trong mức độ trợ giúp cộng đoàn tự xây dựng trong tình yêu. Cũng vậy, các vai trò khác biệt không cho phép bất cứ ai nghĩ mình ở trên người khác. Mỗi người có một vị trí không thể thay thế trong một tổng thể hợp nhất bởi Thánh Thần nhằm qui tụ tất cả mọi người trong Tình yêu.
Tin mừng: Ga 20,19-23
NGỮ CẢNH
Trong bốn sách Tin Mừng, chóp đỉnh của các trình thuật Chúa Giê su sống lại là việc Người hiện ra cho nhóm Mười Một qui tụ ở một nơi. Dù cho hoàn cảnh và các chi tiết có khác nhau, thì mối quan tâm vẫn luôn luôn là một: các tác giả đều nhấn mạnh đến sự thử thách của đức tin. Riêng đối với Gioan trong câu chuyện về ông Tôma, tác giả đề cao sự tiến triển đức tin vào Chúa Giê su sống lại qua khung cảnh được diễn ra trong hai giai đoạn. Và trình thuật khép lại với một vài khẳng định cốt yếu: ơn ban Thánh Thần, ơn tha tội, sai đi truyền giáo, khẳng định của niềm tin hoàn toàn vào Chúa Giê su, là Chúa và là Thiên Chúa.
Có thể đọc đọan tin mừng theo bố cục sau đây :
1. Khung cảnh Chúa Giê su phục sinh hiện đến và chúc bình an cho các môn đệ (20,19)
2. Các môn đệ vui mừng vì nhìn thấy Chúa (20,20)
3. Chúc bình an và sai đi (20,21)
4. Ban Thánh Thần (20,22)
5. Ban quyền tha tội và cầm buộc (20,23)
TÌM HIỂU
Vào chiều ngày ấy: bà Maria Mađalêna đi ra mồ từ « sáng sớm » (20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài đã trôi qua trước cuộc hội ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ tuy xảy ra vào buổi chiều (6,16; 13-17), nhưng vẫn còn thuộc ngày thứ nhất (20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Mađalêna đầy sự ngẫu hứng và yêu mến. Bà đi thẳng đến Chúa và đã gặp được Ngài. Còn các môn đệ thì khác thì chưa hết « sốc » bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù nghe những bước chân dồn dập của Phêrô và Gioan, họ vẫn còn lẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa Giê su cần phải ban cho họ niềm xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật nầy có lẽ phản ánh nỗi khó khăn mà Hội Thánh gặp phải: một vài người mạnh dạn đến với Chúa, trong sự đơn sơ của niềm tin; trái lại một số khác thì chậm chạp hơn vì nhiều thử thách mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: « Đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ » (Mt 18,20).
« Bình an cho anh em »: lời chào được lặp lại ở câu 21. Đó là câu chào hỏi bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy nhiên, bình an là một khái niệm giàu ý nghĩa bao hàm toàn bộ những gì làm cho cuộc sống hạnh phúc. Sự bình an của thời đại cánh chung là ơn ban quí giá nhất mà Thiên Chúa dành cho con người đã được các tiên tri báo trước. Ơn trên được ban xuống là nhờ vào những nỗi khổ đau mà Người Tôi Tớ phải gánh chịu: «Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành » (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở giữa các môn đệ của Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho họ sự bình an (x.14,27; 16,33). Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ thuộc về Ngài trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: « Ngài là chính sự bình an của chúng ta » (Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở Lc 24,39, Chúa Giê su muốn liên kết các nổi đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc phục sinh của Ngài, khi tỏ cho thấy các vết thương của Ngài. Chỉ có Gioan nói, và nói ba lần (ở đây và cc, 25-27), đến vết thương cạnh sườn Ngài (x. 19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: « Để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con » (Ga 17,l3).
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ của Ngài không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai phái họ ra đi. Cả bốn tin mừng đều đồng qui về điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc 24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những đối tượng của lời cầu nguyện mà Chúa Giê su dành cho các môn đệ của Ngài (17,18). Và cũng nhằm nối tiếp sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su lặp lại « Bình an cho các con ». Ra đi vào thế gian, họ mang theo mình sự bình an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gioan, cử chỉ nầy là dấu chỉ đưa đến một thực tại sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao lại trên thánh giá (19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần đó được liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Luca bố trí biến cố Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng đặt mối tương quan đó trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính ngày Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê su, lịch sử cứu độ đạt đến giai đoạn cuối cùng. Vào lúc khởi đầu: Thiên Chúa đã ‘thổi sinh khí’ (Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung tâm thế giới mới, mà ngài đã tác sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính Thiên Chúa để làm cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao gồm việc tha tội (x. Lc 24,47). Từ đầu sách tin mừng Gioan đã xuất hiện một lời mời gọi tiếp nhận sự sống ngang qua niềm tin vào Chúa Giê su; do đó, tội lỗi căn bản chính là sự từ chối tin. Gia nhập vào cộng đoàn các tín hữu, những người tin vào Chúa Giê su phục sinh, là xác nhận rằng tội riêng đã được tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song đối của một tổng thể duy nhất là sứ mạng của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn cứu độ (3,16-17; 5,20-30).
SỨ ĐIỆP
“Buổi chiều ngày phục sinh, các môn đệ đóng kín cửa vì sợ người do thái”. Câu đầu tiên trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe đặc biệt gây ấn tượng. Ngày Chúa Giê su sống lại đối với họ là một ngày đầy căng thẳng và xáo trộn. Từ khi Thầy bị bắt, nhất là từ khi chết trên cây Thánh giá, mọi hi vọng đều tan biến. Họ nghĩ rằng không còn được nghe giọng nói quen thuộc của vị tiên tri Ga li lê nữa, người đã loan báo cho họ Nước Trời đang đến. Họ không còn hi vọng được thấy các phép lạ của Ngài nữa. Cái chết đã chấm dứt cuộc phiêu lưu kì thú mà họ đã trải qua.
Thế mà Chúa sống lại hiện ra với các bạn bè của họ. Sự sợ hãi nhường chỗ cho niềm vui. Cuộc phiêu lưu hạnh phúc sẽ lại bắt đầu trên những nẻo đường Ga lli lê và Giu đê a chăng? Và có phải đây là giờ thiết lập Vương quốc ở Israen không? Những lời Thầy nói thật mầu nhiệm: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và họ có hiểu ý nghĩa và tầm quan trong của câu nói theo sau: “Ngài thổi hơi trên họ và bảo họ: Hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần” không?”
Sách Công vụ kể lại cho chúng ta nghe câu truyện tiếp theo: Vào buổi sáng ngày Hiện xuống, các tông đồ và môn đệ kết thúc tuần cầu nguyện của họ. Những người mà sau cái chết của Chúa Giê su chỉ nghĩ đến việc ẩn trốn, thì giờ ra giữa đám đông, lại mạnh dạn bắt đầu rao giảng những điều kì diệu mà Thiên Chúa đã làm: “ Ông Giê su người Na gia rét, con người được Thiên Chúa ủy thác bằng các phép lạ ở giữa anh em, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại”. Thật là một sự thay đổi kì diệu nơi những người ấy ! Thật thế, Chúa Thánh Thần là động cơ thúc đẩy sám hối khiến cho đám đông phải sửng sốt.
Giáo hội của lễ Hiện xuống là Giáo hội lớn tiếng tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê su phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Phê rô chúng ta đã biết: “Tất cả nhà Israel đều biết rõ rằng: Thiên Chúa đã phong làm Chúa và Đức Ki tô cho ông Giê su mà anh em đã đóng đinh”.
Giáo Hội của Lễ Hiện xuống đầu tiên là một Giáo Hội khao khát lời Thiên Chúa nuôi dưỡng họ, một Giáo hội ra sức cầu nguyện, chăm chú vào giáo huấn của các tông đồ. Đó là Giáo hội của tình yêu huynh đệ và chia sẻ, hiệp thông trong việc cử hành Thánh Thể.
Giáo hội chúng ta ngày nay cũng là Giáo Hội của lễ Hiện xuống, mà Chúa Thánh Thần đã linh hoạt và nuôi dưỡng, soi sáng và thanh luyện, củng cố trong những cuộc chiến đấu khó khăn chống lại các thế lực sự dữ lầm lạc, dối trá, lôi cuốn của tất cả các thần tượng và làm gẩy đổ mọi sự.
Giáo hội ngày nay lả Giáo hội cố gắng thiết lập trên trần gian vương quốc của Chúa Giê su Ki tô không dựa vào mãnh lực của tiền bạc hay uy tín nhưng bằng sự loan báo Lời Thiên Chúa, Giáo hội tìm cách qui tụ gia đình nhân lọai trong một cộng đoàn rộng lớn sống tình huynh đệ.
Giáo hội ngày nay là giáo hội bênh vực con người, hình ảnh Thiên Chúa, Giáo hội sai các phần tử của mình đến với mọi người anh em của họ, để mang lại nhiều công bằng hơn, nhiều tự do hơn trong các mối tương quan xã hội, trong tổ chức trần thế, ngỏ hầu chương trình cứu độ Thiên Chúa đề nghị cho chúng ta được thực hiện.
Giáo hội ngày nay không mất viễn ảnh “trời mới đất mới” mà sách Khải Huyền gợi lên. Bổn phận của Giáo hội nơi trần thế không che khuất bổn phận trên trời: “Nầy đây nơi ở của Thiên Chúa giữa con người. Thiên Chúa ở với họ sẽ là Thiên Chúa của chúng. Sẽ không còn chết chóc, kêu là và sẽ không còn đau khổ nữa, vì thế giới cũ đã biến mất”».
Giáo hội ngày nay ghi nhớ lời Chúa Giê su: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Hãy làm việc không vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực tồn tại cho sự sống vĩnh cửu”.
Dưới ánh sáng lời Chúa Giê su, đã đến lúc chúng ta tự hỏi để chỉnh đốn lại: Các cộng đòan ki tô của chúng ta có mang diện mạo của Giáo Hội ngày Hiện xuống không ? Chúng ta có phải là những ki tô hữu đầy lòng tin tưởng, chắc chắn về Chúa của mình không ? Người ki tô hữu có dạn dĩ công bố Tin mừng không ? Người ki tô hữu có vui mừng chia sẻ của cải vật chất và cả những của cải đức tin không? Tắt một lời, chúng ta có để cho Thánh Thần hoạt động trong chúng ta không ?
Chúng ta ngưỡng mộ Mẹ Têrêxa Calcutta, thầy Phêrô và nhiều vị khác. Ở nhiều nước trên thế giới, người ki tô hữu bị bách hại chỉ vì họ muốn sống theo lô gíc của đức tin. Chúng ta đã gặp nhiều người thuộc đủ mọi tầng lớp sống đơn sơ trong cuộc sống hằng ngày, nhưng nhiệt thành dấn thân cho người khác. Có những người ki tô hữu chiến đấu cho hòa bình công lí, tự do, những người ki tô hữu quan tâm đến việc giải tỏa những hiểu sai của người đương thời về Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cũng gặp những người ki tô hữu lo sợ những đòi hỏi của Tin Mừng, những người ki tô hữu bằng lòng trong lối mòn và tầm thường, tiếc nuối quá khứ, ẩn mình trong việc chiêm ngắm Giáo hội của ngày hôm qua và không dám đảm nhận trách nhiệm của Giáo hội ngày hôm nay. Chúa Giê su nói: “Dân tộc nầy thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta”.
Có khi nào chúng ta khóa kín tâm hồn lại để tránh tiếp xúc với những người không cùng ý tưởng với chúng ta, những người không thuộc thế giới chúng ta không? Thế nhưng Chúa Giê su đòi chúng ta yêu mến thù địch và làm ơn cho những kẻ ghen ghét chúng ta.
Thánh Thần biến đổi các tông đồ. Ngài đã kéo họ ra khỏi pháo đài để ra đi rao giảng Tin mừng Cứu độ. Chúng ta hãy để cho Ngài biến đổi. Hãy mở rộng thần trí và tâm hồn đón nhận hơi thở của Ngài để hiểu rõ hơn sứ điệp của Chúa Giê su, ngỏ hầu yêu mến anh em mình hơn và loan báo cho họ Tin mừng với một niềm đam mê mà không gì có thể ngăn cản được.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bài đọc thứ nhất trích từ sách Công vụ (2,1-11), tác phẩm thứ hai của Thánh Lu ca, kể lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ vào ngày lễ Ngũ tuần.
2. HỎI: Đâu là bối cảnh của cuộc Hiện xuống?
THƯA: Đó là Thành Giê su sa lem và lễ Ngũ tuần. Thành Thánh Giê ru sa lem là thành của ơn ban Thánh Thần: đó không chỉ là nơi Chúa Giê su thiết lập bí tích Thánh thể, nơi Ngài sống lại, mà còn là nơi Thánh Thần được ban xuống cho nhân loại. Vào thời Chúa Giê su, lễ Ngũ tuần của Do thái giáo rất quan trọng: đó là lễ kỉ niệmn ơn ban lề luật, một trong ba lễ lớn trong năm mà người ta phải hành hương về thành Giê ru sa lem.
3. HỎI: Qua trình thuật Hiện Xuống (Cv 2,1-11), Thánh Lu ca muốn gợi lại ba bản văn nào của Cựu Ước?
THƯA: Thánh Lu ca muốn gợi lại ba bản văn nầy: một là bản văn ban Lề luật trên núi Si nai (Xh 19); hai là lời của Tiên tri Giô-ên (Ge 3); và ba là câu truyện tháp Ba-bên (Stk 11,1-3)
4. HỎI: Những dấu hiệu nào gợi lại bản văn ban lề luật trên núi Si-nai?
THƯA: Đó là lưỡi lửa, tiếng động giống như một luồng gió mạnh, gợi nhớ lại những gì đã xảy ra ở trên núi Si nai khi Thiên Chúa ban lề luật cho ông Mô sê (x. Xh 19).
5. HỎI: Thánh Lu ca có ý gì khi gợi lại biến cố Si nai?
THƯA: Thánh Lu ca muốn cho thấy lễ Ngũ tuần nầy là một biến cố Si nai mới. Cũng như Thiên Chúa đã ban lề luật cho dân để dạy họ sống theo Giao Ước, thì từ nay Người ban Thần khí của Người cho dân, như lời tiên tri Êdêkiên loan báo: “Ta sẽ đặt trong tâm hồn chúng Thần khí của Ta, Ta sẽ dạy chúng đi theo lề luật, tuân giữ và thực hiện các điều luật của ta, chúng sẽ là dân ta và ta sẽ là Thiên Chúa của chúng”. Từ nay luật Thiên Chúa được ghi khắc trong tâm hồn chứ không còn trên những phiến đá nữa như xưa nữa.
6. HỎI: Điều gì cho thấy Thánh Lu ca muốn gợi lại lời sấm Gio-ên?
THƯA: Tiên tri Gio-ên loan báo: “Ta sẽ đổ thần khi của Ta trên mọi xác phàm” (Ge 3). Nên sự kiện nhiều dân tộc khác nhau hiện diện ở Giê-ru-sa-lem cũng như việc người do thái từ khắp nơi đổ về Giê ru sa lem dự lễ cho thấy lời sấm Giô ên đã được hoàn tất.
7. HỎI: Tại sao Thánh Lu ca muốn gợi lại câu truyện về tháp Ba bên?
THƯA: Câu chuyện về ngày Ngũ tuần trong Lu ca theo sát đường hướng câu chuyện tháp Ba bên: ở Ba bên, nhân loại học được sự khác biệt, còn ở ngày lễ Ngũ tuần, họ học được sự duy nhất trong sự khác biệt: từ nay, mọi dân tộc đều đồng ý công bố sứ điệp duy nhất về những điều kì diệu của Thiên Chúa bằng các ngôn ngữ của họ.
8. HỎI: Các cửa đều đóng kín, nhưng Chúa Giê su vẫn đến được, cho thấy gì?
THƯA: Cho thấy rằng Ngài đang sống trong một điều kiện thể lí khác hẳn trước, thân xác phục sinh của Ngài không còn bị ràng buộc bởi các định luật vật lí như chúng ta.
9. HỎI: “Nơi các môn đệ ở” là nơi nào?
THƯA: Có lẽ Gioan nghĩ đến mộ căn nhà ở Giê ru sa lem, và dường như đây cũng chính là nơi các môn đệ ở khi Maria Mađalêna đến tìm các ông (20,18).
10. HỎI: Tại sao Chúa Giê su chúc các tông đồ hai lần: “Bình an cho các con”?
THƯA: Vào chiều Phục sinh, Chúa Giê su tỏ mình ra cho các tông đồ và hai lần chào chúc bình an cho họ. Giữa hai lần chào chúc, Ngài tỏ cho thấy các dấu tích của cuộc Khổ nạn. Qua đó, Ngài muốn nói rằng bình an Ngài ban không giống bình an của người đời. Trái lại đó là thứ bình an đích thực, được mua lấy bằng chính máu của Ngài trong cuộc Khổ nạn. Niềm vui và bình an Ngài ban là kết quả của cuộc Khổ nạn ấy.
11. HỎI: Tại sao Chúa Giê su thổi hơi vào các ông khi trao ban Thánh Thần?
THƯA: Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (Stk 27,; Kn 15,11), Chúa Giê su thổi hơi Thánh Thần tái tạo họ để trao ban cho sứ mạng dẫn đưa người khác đến với nguồn sự sống mới.
12. HỎI: Như thế, các môn đồ được Chúa Giê su trao ban Thánh Thần hai lần, một lần chiều ngày Phục sinh (theo Gioan) và một lần nữa vào dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4)?
THƯA: Hai sự việc được Gioan và Luca tường thuật thật ra không phải hai lần trao ban Thánh Thần khác nhau, nhưng là hai cách diễn tả cùng một biến cố.
13. HỎI: Có mối liên hệ nào giữa ơn ban Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo không?
THƯA: Có. Sứ mạng truyền giáo đòi phải có một cuộc biến đổi sâu xa nơi các môn đệ, để họ có thể đảm nhận công việc siêu phàm mà Chúa Giê su trao ban cho họ. Chỉ có Thánh Thần mới có khả năng thực hiện cuộc sáng tạo mới ấy. Nhờ Ngài các môn đồ được hiến thánh cho sứ mạng như Chúa Giê su đã được ‘hiến thánh và được sai đến trong thế gian’ (x. 10,36; 1.33..)
14. HỎI: Quyền tha và cầm tội được trao ban cho các môn đệ nói lên điều gì?
THƯA: Truyền thống Công Giáo vẫn coi những lời Chúa Giê su trao ban cho các môn đệ quyền tha và cầm tội là lời thiết lập bí tích cáo giải. Từ nay, các môn đệ được ban cho quyền tha thứ tội lỗi để giao hòa tội nhân với Thiên Chúa.
15. HỎI: Ơn ban Chúa Thánh Thần có giúp cho việc hình thành Giao Ước mới giữa Thiên Chúa và loài người không?
THƯA: Rất cần. Chúa Thánh Thần sẽ đưa Giáo Hội vào chân lí toàn diện, nghĩa là giúp cho loài người hiểu biết Thiên Chúa một cách đúng đắn hơn. Con người tự sức mình không thể nào vươn tới chân lí toàn diện ấy được, phải có ơn ban Thánh Thần Chân lí, như lời sấm Tiên tri Isaia: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa. Chúng sẽ là Dân của Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Gr 24,7).
16. HỎI: Sách Công vụ của thánh Luca thì đặt việc Chúa Thánh Thần Hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần, còn tin mừng thánh Gioan thì lại đặt việc Chúa Giê su ban Thánh Thần vào chiều ngày Chúa sống lại, tại sao có sự khác biệt đó?
THƯA: Hai Thánh sử đi theo hai đường hướng khác nhau trong việc chuyển thông niềm tin cho các tín hữu. Thánh Gioan thì nhấn mạnh đến tính cách duy nhất của mầu nhiệm Phục sinh: Chúa Giê su sống lại , được tôn vinh (lên trời) và ban Thánh Thần của Ngài cho Giáo Hội. Còn Thánh Luca thì lại chú ý đến huấn giáo mầu nhiệm bằng cách suy ngắm mầu nhiệm Phục sinh bằng ba cử hành khác nhau: Chúa Giê su sống lại, Chúa Giê su lên trời 40 ngày sau, và Chúa Thánh Thần Hiện xuống 10 ngày sau đó. Phụng vụ đã theo đường hướng nầy.
17. HỎI. Lễ Hiện Xuống có phải là lễ tôn giáo quan trọng nhất không?
THƯA: Đúng là như vậy. Đó là lễ lớn nhất, vì nó chỉ ra con đường cho tin mừng được loan báo trên tòan thế giới. Đó là lễ Truyền Giáo của Giáo Hội công bố cho mọi dân biết rằng Thiên Chúa Ba Ngôi ba lần thánh là Tình yêu.
18. HỎI. Nhưng theo Phụng vụ, thì lễ Hiện Xuống nói lên điều gì?
THƯA: Lễ Hiện Xuống là cao điểm của các lễ mùa Phục sinh và cùng với lễ Phục sinh, là đỉnh cao của Năm Phụng vụ. Đó là lễ của Thánh Thần và là lễ của Giáo Hội, là ngày sinh ra Giáo Hội. Nó nhắc chúng ta nhờ đến sự hiện diện và hoạt động kì diệu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống con người. Hơn bao giờ hết, nhân lọai có trách nhiệm to lớn là không được dập tắc hay cản trở hành động nầy. Đức Gioan Phao lô II nói trong thông điệp Redemptoris Missio rằng: “Chúa Thánh Thần là nhân vật chính của Sứ mạng Giáo Hội”.
19. HỎI. Việc tắt nến Phục sinh có cho thấy Đức Ki tô vắng mặt trong Giáo hội không?
THƯA: Không hẳn là như thế, dù cho việc tắt nến Phục sinh được chỉ định trong ngày hôm nay, cho thấy một hình thức hiện diện mới của Đấng Phục sinh trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giữa các môn đệ và ngang qua các Ngài giữa mọi dân tộc.