HIỆP SỐNG
TIN MỪNG CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN A
Is 25,6-10a
; Pl 4,12-14.19-20 ; Mt 22,1-14
SÁM
HỐI VÀ TIN CHÚA GIÊ-SU LÀ
Y PHỤC DỰ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 22,1-14
(1) Đức
Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) “Nước Trời cũng
giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai
đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự
tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những đầy tớ
khác đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: “Này
cỗ bàn, ta đã dọn xong. Bò tơ và thú béo đã hạ rồi. Mọi sự đã
sẵn. Mơi quý vị đến dự tiệc cưới !” (5) Nhưng quan khách không thèm
đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thi đi buôn. (6)
Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết
chết. (7) Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát
nhân ấy, và thiêu hủy thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy
tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không
xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời
hết vào tiệc cưới. (10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai,
bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy
thực khách. (11) Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát thực khách dự
tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục tiệc cưới (12) mới
hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục
lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì. (13) Bấy giờ, nhà
vua bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ
tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! (14)
Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”.
2. Ý
CHÍNH: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI
Đức Giê-su trình bày dụ ngôn tiệc cưới, ám
chỉ lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn chính như sau:
Đầu tiên Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi
dân riêng Ít-ra-en gia nhập vào Nước Trời do Đấng Thiên Sai thiết lập,
nhưng họ đã từ chối tình thương cứu độ của Người. Sau đó Thiên Chúa
đã mời gọi tất cả các dân tộc gia nhập Nước Trời. Tuy nhiên muốn
được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời đời sau người ta tối thiểu phải
mặc y phục lễ cưới, tức là phải có “lòng ăn năn sám hối và tin vào
Tin mừng” do Chúa Giê-su rao giảng. Ai cố tình không mặc y phục lễ
cưới sẽ không được vào dự tiệc Nước Trời và còn bị phạt trong hỏa
ngục muôn đời.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 1-3: + Nước Trời giống như chuyện một vua
kia mở tiệc cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở bữa tiệc thời Thiên
Sai bằng việc cho Con Một Người xuống thế làm người (x. Mt 24,1-12; Kh
19,9). Tuy dụ ngôn về tiệc cưới của hoàng tử, nhưng lại đề cập nhiều
đến thái độ phải có của các khách được mời đến tham dự. + Nhà vua
sai đầy tớ: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ (x. ls 25,6). + Đi thỉnh các
quan khách đã được mời trước: Quan khách ám chỉ dân Ít-ra-en được
Thiên Chúa ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu đến: Các đầu mục đã hướng
dẫn dân Ít-ra-en khinh thường lời mời của Thiên Chúa.
- C 4-6: + Nhà vua lại sai những đầy tớ khác
đi: Điều này cho thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên
nhẫn trước thái độ bất trung ngỗ nghịch của Ít-ra-en dân riêng của
Ngài. + Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Họ không
đếm xỉa tới lời mời vì không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai
đến. + Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn: Đi thăm trại hay đi buôn
bán là những lý do biện minh cho hành động không đến tham dự bữa
tiệc cưới, cho thấy dân ít-ra-en đã coi trọng của cải vật chất và
các việc trần gian hơn lời hứa cừu độ của Thiên Chúa. + Còn những
kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết: Các
đầu mục đã xúi dân bắt bớ giết hại các ngôn sứ là những gia nhân do
Thiên Chúa sai đến. Điều này cho thấy tội bất trung của họ đã lên
đến tột cùng và đáng bị trừng phạt.
- C 7-8: + Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ: Sự
dửng dưng, từ chối và còn giết hại các ngôn sứ thời Cựu ước và
các Tông đồ thời Tân ước khiến cho Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ. + Sai
quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy: Sự cố chấp chống lại tình thương
cứu độ, khiến dân Do Thái không còn xứng đáng được hưởng sự khoan
dung nữa và đáng bị trừng phạt. + Và thiêu hủy thành phố của chúng:
Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá
hủy bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này cho thấy Tin mừng
Mát-thêu được biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả đã được chứng
kiến cảnh hoang tàn đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem. + Những kẻ đã
được mời lại không xứng đáng: Ơn cứu độ đã được hứa ban cho dân
Ít-ra-en, nhưng họ lại không đáng được hưởng do thái độ dửng dưng và
từ chối gia nhập vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết
lập.
- C 9-10: + Vậy các ngươi đi ra các ngả
đường: Nhắc lại lệnh của Đức Giê-su truyền cho các môn đệ trước khi
về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt
28,19). Ra các ngả đường còn nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ như
lời Đức Giê-su: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc
cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng
con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngòai, ở đó
người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất luận
xấu tốt cũng tập hợp cả lại: Câu này cho thấy ý của Thiên Chúa là
muốn cho tất cả mọi người đều được vào Nước Trời (x. Mt 9,13). +
Phòng tiệc cưới đã đầy thực khách: Từ nay Hội thánh gồm đủ mọi dân
tộc và mọi thành phần tốt xấu trong xã hội. Ở đây cũng nhắc lại ý
nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt
13,47-50).
- C 11-12: + Nhà vua tiến vào quan sát khách
dự tiệc: Sự quan sát ám chỉ cuộc phán xét cuối cùng của Đức Giê-su,
Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm “Vua” xét
xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội thánh lữ hành” ở trần gian còn bao
gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu, nhưng “Hội thánh chiến thắng” trên
trời lại chỉ gồm những người đã trải qua cuộc phán xét chung. Khi ấy
chỉ những người có đức tin, thể hiện qua lối sống khiêm tốn phục vụ
mới được tham dự bàn tiệc Nước Trời. + Có một người không mặc y
phục lễ cưới: Trong Thánh Kinh không chỗ nào đề cập đến tục lệ chủ
nhà sắm quần áo cưới cho quan khách đến dự tiệc mặc trước khi vào
phòng tiệc nhưng chỉ cần họ ăn mặc lịch sự là đủ. Y phục lễ cưới ở
đây ám chỉ chiếc áo trắng chiến thắng (x. Kh 7,9b), áo chính trực
công minh (x. Is 61,10) và công chính (x. Mt 5,16.20), tượng trưng con
người mới công chính thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như Hiền thê được
trang điểm và được mặc áo sáng chói tinh tuyền đi đón Con Chiên (x. Kh
19,8). Tóm lại, y phục lễ cưới chính là chiếc áo trắng tinh khi chịu
phép rửa tội. + Người ấy câm miệng không nói được gì: Người không
mặc y phục lễ cưới đã không thể biện minh cho thái độ khinh thường
chủ tiệc của mình.
- C 13-14: + Trói chân tay nó lại, quăng nó ra
chỗ tối tăm bên ngoài: Đây là những hình phạt tượng trưng cho hỏa
ngục, nơi dành cho những kẻ sống bất chính và thù ghét Thiên Chúa. Nơi
đó họ sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tủi hờn. + Kẻ được
gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Nhiều ít không phải về
số lượng, nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên câu này có thể được dịch
lại như sau: “Kẻ được gọi thì đông hơn, và người được chọn thì ít
hơn”. Câu này lẽ ra được đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc Cưới. Vì người
được gọi thì rất nhiều “chật ních phòng tiệc”, và chỉ có người
được mời trước từ chối và “một người không mặc áo cưới bị loại ra
mà thôi (x. Lc 13,22-30). Việc người được gọi thì nhiều mà được chọn
thì ít không phải do Thiên Chúa không mời, nhưng tại loài người đã cố
tình từ chối lời mời của Thiên Chúa, hay vì không mặc áo cưới công
chính tinh tuyền, không sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Mt 3,8
; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ; 21,32).
4. HỎI
ĐÁP:
- Hỏi 1: So sánh dụ ngôn Tiệc cưới trong hai
Tin mừng Mát-thêu (22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta thấy Tin mừng Lu-ca
không nói đến việc ông vua phát hiện ra có một kẻ không mặc áo cưới
và trừng phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại đúng hơn ?
ĐÁP:
Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ rằng:
dụ ngôn Tiệc Cưới do Đức Giê-su giảng thực ra đã chấm dứt ngay sau khi
vua cho mời những kẻ nghèo khó, tàn tật mù què vào đầy phòng tiệc,
để thế chỗ cho những kẻ được mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt
22,1-10). Còn phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14) thực ra là một
dụ ngôn khác, là dụ ngôn “Áo Cưới”, nhưng đã được đặt liền sau dụ
ngôn “Tiệc Cưới”.
- Hỏi 2: Ông vua có bất công không khi phạt
một người khách không mặc y phục lễ cưới chỉ vì bất ngờ được mời,
nên không có thời gian chuẩn bị trước. Hơn nữa, do được mời ở ngã ba
đường và bị ép vào phòng tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới ?
ĐÁP:
Những ai nhận đây là hai dụ ngôn được ghép
lại thành một thì sẽ không thắc mắc gì về vấn đề áo cưới, vì ai
cũng có thời giờ chuẩn bị trước ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường hợp
được mời đột xuất thì việc phạt người không mặc áo cưới cũng không
phải là bất công. Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất
ngờ như vậy mà vẫn mặc y phục lễ cưới ? Hơn nữa, khi bị hạch hỏi,
người không mặc áo cưới này lại làm thinh, không bào chữa gì được
cho hành vi của mình. Nhưng đây cũng chỉ là một câu chuyện dụ ngôn,
nhằm dạy bài học hơn là chú ý đến các chi tiết xác thực. Điều dụ
ngôn muốn nói là: Người khách không mặc áo cưới là một kẻ xấu xa
gian ác, cố tình không sám hối, nên hắn ta đáng bị vua trừng phạt
trong hỏa ngục đời đời.
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA:
Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người
không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn
vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không
nói được gì (Mt 22,11-12).
2. CÂU
CHUYỆN: Y PHỤC CỦA SỰ HÂN HOAN, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Để trả lời cho những người muốn biết Nước
Trời ở đâu, Đức Giê-su đã dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các
ông” (Lc 17,21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng đoàn hay bất cứ tập thể
nào cũng có thể trở thành thiên đàng hay hỏa ngục. Có người đã
tưởng tượng ra cảnh thiên đàng và hỏa ngục tương tự như hai bàn tiệc
sau đây:
Cả hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới hỏa
ngục đều có đầy thức ăn ngon, và mỗi người đều được phát một đôi đũa.
Có điều các đôi đũa đều dài quá khổ, đến nỗi tuy người ăn có thể
gắp được đồ ăn trên bàn, nhưng lại không sao đưa được vào miệng của
mình. Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi người đồng bàn đều có
lòng vị tha bác ái, thể hiện qua thái độ phục vụ người khác và làm
vui lòng người khác. Họ gắp đồ ăn lẫn cho nhau, nên mọi người đều được
ăn no và không khí bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh phúc. Ngược
lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì mọi người đồng bàn đều có thái
độ ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình. Vì không thể tự đưa đồ ăn vào
miệng, và lại ganh tị không muốn người khác hơn mình, nên mọi người
trong bàn tiệc đều bị đói, và hậm hực thù ghét lẫn nhau. Bầu khí nơi
bàn tiệc lúc thì căng thẳng, lúc lại nặng nề khiến trong số các kẻ
ngồi ăn: Người thì chán nản khóc lóc, kẻ lại nghiến răng giận hờn.
3. SUY
NIỆM:
1) THIÊN
CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO LOÀI NGƯỜI QUA HAI GIAI ĐOẠN:
a- Đầu tiên : Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ
đến với dân It-ra-en báo tin về một Đấng Thiên Sai sẽ đến thiết lập một
“Triều Đại của Thiên Chúa”, và mời dân này gia nhập. Khi gần đến ngày
đã định, Thiên Chúa lại sai Gio-an Tẩy Giả là vị tiền sứ của Đấng
Thiên Sai đến nhắc lại lời mời gọi ấy như sau: “Anh em hãy sám hối,
vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en vẫn tỏ thái độ thờ
ơ và vua Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an và về sau dân này còn hè nhau giết hại
chính Người Con do Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su.
b- Tiếp đến : Trước sự cứng lòng từ chối ơn cứu độ
của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa đã mời hết mọi dân tộc tham dự tiệc cưới
Nước trời như lệnh truyền của Đức Giê-su trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Sau khi nhận ơn Thánh Thần, các Tông đồ
đã thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp muôn dân. Nhờ Thánh Thần tác
động mà số người gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng.
2) ĐÁP LẠI
LỜI MỜI CỦA THIÊN CHÚA THẾ NÀO ? :
a- Phải
mặc y phục lễ cưới:
Chúng ta vốn là dân ngoại, nhưng đã đáp lại
lời mời của Đức Giê-su để gia nhập vào Hội thánh (x. Mc 1,15). Nhưng
muốn được tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau, chúng ta cần mặc chiếc áo
trắng tinh khi chịu phép rửa tội và sống đức tin bằng việc thực thi đức cậy
và đức mến (x. Mt 7,21; Lc 11,28). Thực ra, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn
được nên con cái của Người, là để chúng ta sống xứng với ơn ấy. Cần
hoán cải và canh tân mỗi ngày (x. Mt 3,2), cần sống khiêm tốn, yêu
thương và phục vụ Chúa trong người chung quanh, nhất là những người bệnh
tật, nghèo khổ và bị bỏ rơi (x. Lc 17,10; Mt 25,34), chu toàn sứ mạng loan
báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16). Mỗi tối khi tự kiểm trước khi đi ngủ,
chúng ta hãy tự hỏi: Hiện giờ tấm áo trắng rửa tội của tôi có còn
tinh tuyền không ? Hôm nay tôi đã sống giới răn mến Chúa yêu người như thế
nào ? Giả như đêm nay Chúa gọi tôi về trình diện, thì tôi có đủ điều
kiện tham dự bàn tiệc Nước Trời là Thiên đàng hay không ?
b- Y phục lễ cưới là thực hành ba nhân đức đối Thần là “Tin,
Cậy, Mến”:
Thánh Phao-lô khuyên đồ đệ
Ti-mô-thê : “Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến, phát xuất từ tâm hồn
trong sạch, lương tâm ngay thẳng, và đức tin không giả hình” (1 Tm 1, 5). Đó chính
là y phục lễ cưới Nước Trời. Trong lễ nghi Rửa tội, tấm áo trắng được trao cho
người tân tòng mặc vào biểu tượng sự sống mới được Chúa Giê-su mang lại nhờ cái
chết trên cây thập giá của Người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta cởi
bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới theo Chúa
Ki-tô. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Giê-su do
Chúa Cha khoản đãi, đều phải có được lối sống Tin Cậy Mến này.
c- Các tín hữu cũng cần nhìn lên những điều cao siêu trên trời:
+ Câu chuyện ngụ ngôn về một con chim đại bàng như
sau:
Một con gà rừng mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn trong
ổ trứng của nó có một trứng to của chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả trứng
đều nở ra thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên các chú gà rừng như anh chị
em ruột trong gia đình gà rừng.
Một ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm
ăn giun đất chung với đàn gà rừng, đại bàng con chợt thấy một con đại bàng lớn
bay lượn trên không với dáng vẻ oai phong đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ rằng:
- Mẹ ơi, sao bọn mình lại không
bay lên cao như chim đại bàng trên trời kia hả mẹ ?
- Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên được con ạ !
- Thế chúng ta là ai hả
mẹ ? Đại bàng con hỏi tiếp.
Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi !
Rồi vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm
ăn trên đống rác, đại bàng con lại thấy chim đại bàng mẹ bay lượn trên cao gọi cậu:
- Hãy bay lên cao với
mẹ hỡi con của ta ! Thế giới của con là trời cao biển rộng, chứ đâu phải
đống rác nhơ bẩn dưới đó ! Mau bay lên với mẹ đi con.
Đại bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ gọi,
nhưng bay được vài cái là lập tức bị rơi xuống đất giữa tiếng cười chế nhạo của
anh em gà rừng. Bọn chúng bảo đại bàng con rằng:
- Chú chỉ là
loài gà rừng, làm sao bay lên cao được hả chú bé ?
Đại bàng con tự nhủ : Nếu ta chỉ là gà rừng thì
sao mẹ đại bàng trên cao kia cứ gọi ta là đại bàng con ? Đàng khác, ta
thấy bay lên cao cũng đâu phải quá khó ! Có lẽ tại ta chưa tập thành thạo đó
thôi. Vậy bây giờ ta thử bay thêm lần nữa xem sao.
Thế là đại bàng con đủ lông đủ cánh đã bay được lên
trời và cứ tiếp tục bay lên cao mãi. Cậu bay theo sau đại bàng mẹ tiến về một phương
trời mới. Lần đầu tiên trong đời, đại bàng con được nhìn xuống đất từ trên cao.
Cậu cản thấy lòng tràn ngập niềm vui vẻ hạnh phúc.
+ Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển
chọn để nên con cái của Ngài. Họ là « Giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư
tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa » (1 Pr 2,9). Tuy
sống trong thân phận con người trần gian, nhưng luôn ngước mắt nhìn lên trời cao,
mong về cùng Thiên Chúa Cha đầy tình yêu thương. Cần sống trong tâm tình của thánh
Au-gút-tinô như sau: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa.Và tâm hồn
con vẫn còn thao thức mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
+ Chúng ta đừng nghĩ mình là loài gà rừng hèn hạ,
để chỉ biết cúi đầu bươi chải đống rác hôi thối để tìm kiếm thức ăn, chỉ biết
bằng lòng với những hạnh phúc tầm thường chóng qua do tiền tài danh vọng sắc
dục mang lại. Tuy trước mắt đồ ăn có vẻ hợp khẩu vị đấy, nhưng chúng chỉ có giá
trị nhất thời ở đời này. Khi chết là chấm dứt mọi sự. Chúng ta cần phải nhìn
lên cao, cố gắng tập vươn tâm hồn lên những gì là cao thượng, phù hợp với Thiên
đàng đời sau như lời thánh Phao-lô dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời,
và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người
có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân
xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
4. THẢO
LUẬN:
1) Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa là tình
yêu”. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa
ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). Vậy thiên đàng ở đâu ? 2) Bạn có
thể làm cho gia đình hay cộng đoàn của bạn trở thành thiên đàng được
không ? 3) Theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25,40-45): Để tránh bị Chúa trừng
phạt trong ngày tận thế, ngay từ bây giờ bạn phải làm gì ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết Chúa và xin
cho con biết con. Xin cho con biết luôn quên mình để làm mọi việc vì
lòng yêu mến Chúa. Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm việc để tôn vinh
Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân.
- Lạy Chúa. Ước gì con biết hãm mình và
sống trong tình thương của Chúa. Ước gì con biết đón nhận tất cả
những gì xảy đến cho con và trung thành bước theo Chúa đến cùng. Xin
đừng để điều gì thuộc trần gian quyến rũ con lạc xa Chúa. Xin hãy
thương xót con và giúp con thêm lòng tin yêu Chúa. Xin hãy giúp con
biết noi gương Chúa làm và sống lời Chúa dạy, hầu sau này con đáng
được hưởng kiến Thánh Nhan Chúa Cha trên trời.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
- HHTM