CHỦ NHẬT 2 VỌNG A
Hãy
dọn đường cho Chúa!
Quyền năng của Đấng Messia hệ tại ở việc phục vụ. Trong khi ai
cũng mơ ước chế ngự người khác, thì Ngài trở nên bé nhỏ và khiêm tốn để phục vụ
mọi người. Điều mà Ngài đòi hỏi nơi các môn đệ, đó là một khả năng tiếp nhận
bắt đầu từ một cuộc trở về với Ngài và thay đổi tận căn cách sống và con người.
Sách Tiên tri Isaia
11,1-10
Vua
Akhaz theo đuổi một kiểu chính trị phàm tục mà không hề nghĩ đến hậu quả. Tiên
tri Isaia đến loan báo Đấng sẽ là hậu duệ đích thực của Vua Đa vít, Đấng Messia
sẽ được tràn đầy Thần khí của Chúa, sẽ mở ra một Vương quốc bình an và biến Giê
ru sa lem thành nơi tập trung toàn nhân loại.
Thánh Vịnh 71
Thánh
vịnh nầy cho thấy niềm khao khát của dân Israen chờ đợi một Đấng Messia sứ giả
của công chính, bình an và thịnh vượng giải thoát những người bé nhỏ và nghèo
hèn khỏi sự sách nhiễu bóc lột của người giàu.
Thư Rôma 15, 4-9
Chính qua lịch sử của dân tộc mình mà Thánh Phao
lô nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa sống theo Tình yêu thương xót. Vậy ngài
đòi các tín hữu Rô ma phải đáp trả lời mời gọi ấy bằng cách tiếp nhận nhau như
Thiên Chúa đã tiếp nhận họ cả khi họ vẫn còn ở xa Người.
Tin Mừng: Mt 3,1-12
NGỮ CẢNH
Sau
phần Tin mừng thời niên thiếu, đoạn nầy cùng với hai đoạn văn kế tiếp tạo thành
một đơn vị văn chương (3,1- 4,16), làm bản lề dẫn vào phần thứ nhất của sách
Tin Mừng Mt (4,17. x. 16,13-20 dẫn vào phần thứ hai 16,21).
Ý
định của tác giả Mt là muốn làm nổi bật sự chuyển
tiếp từ những lời tiên tri loan báo đến sự hoàn tất nơi Chúa Giê su. Giống
như các tác giả Mc và Lc, Mt tìm cách nêu bật sự nối tiếp giữa hai vị đến độ giống
hệt nhau, đồng thời cũng đề cao sự mới mẻ khác biệt nơi lời rao giảng của Chúa
Giê su.
TÌM HIỂU
Hồi ấy: trong khi Lc dùng những
cách nói chính xác để tìm cách nối kết lịch sử cứu độ vào trong lịch sử thế
gian, thì Mt dùng một kiểu diễn tả thông thường trong CƯ để loan báo việc Thiên
Chúa can thiệp, đặc biệt vào lúc cuối thời gian (x. Gr 3,17-18; Ge 3,2).
Đến (= Xuất hiện): động từ nầy cũng được
dùng ở 3,13 để nói về Chúa Giê su. Trong cả hai trường hợp, động từ ở thì hiện
tại trong Hy ngữ để chỉ: thời đại cuối cùng đã khởi sự. Mt và độc giả đang sống
trong thời đại đó.
Rao giảng: Mt cũng dùng động từ nầy
để mô tả hoạt động của Chúa Giê su ở 4,17. Đây là động từ chuyên biệt chỉ lời
rao giảng Ki tô giáo, của người đi loan báo một tin mừng. Từ động từ Hy ngữ nầy,
phát xuất danh từ “lời rao giảng ban đầu (=kerygma)”.
Anh em hãy sám hối: Mt đặt trong miệng Gioan
Tẩy giả lời mời gọi sám hối một cách rõ ràng dứt khoát trong khi Mc và Lc chỉ
nói đến phép rửa của Gioan như một phép rửa sám hối để tha tội. Sự kiện Chúa
Giê su muốn lãnh nhận phép rửa nầy chắc chắc làm cho Mt bối rối (x.3,14-15). Và
có lẽ vì lí do đó nên Mt tránh nói đến phép rửa của Gioan như một phép rửa sám
hối để tha tội?
Việc
sám hối nầy, trong viễn tượng của Mt, được liên kết mật thiết với việc sinh hoa
trái (3,8-10), trong khi Mc thì lại nghĩa đến việc thay đổi tâm thức đối với
Thiên Chúa và Đấng Người sai đến.
Nước Trời: trong Mt, Nước Trời khi
thì được hiểu theo nghĩa không gian, khi thì quan trọng hơn theo nghĩa quyền
cai trị của vua, như Nước Trời được thiết lập trên trần gian. Chỉ có Mt dùng từ
“trời” có nghĩa “của Thiên Chúa”. Bởi đó, ta không được coi “Nước Trời” như ở trên
trời, nhưng là Nước của Thiên Chúa, nghĩa là thuộc quyền thống trị của Người được
hình thành trên trần gian. Có nên đồng hoá với Hội thánh không? Chắc chắn là
không, ngay cả khi có liên hệ mật thiết! Đức Ki tô hiện diện và hoạt động trong
Hội Thánh đang chuẩn bị và thậm chí đã khai mào Nước Thiên Chúa.
Đã đến gần: động từ trong Hi ngữ có
thể mang ý nghĩa: “đã hiện diện ở đây rồi” hoặc “rất gần, ở sát bên”, nghĩa là sẽ thực hiện ngay trong sự chết và phục
sinh của Chúa Giê su, hoặc ngay trong khi phán xét chung. Không cần thiết phải
chọn một trong các kiểu cắt nghĩa trên bởi vì đây là một thực tại đang hình
thành, đã hiện diện với Chúa Giê su Ki tô, và sẽ đạt tới mức độ hoàn hảo vào
lúc cuối thời gian mà thôi.
Phái Pharisêu và Xađốc: trong Lc thì Gioan Tẩy
giả nói với đám đông (3,7), còn ở Mt thì ông nhắm tới các lãnh đạo. Những người
nầy sẽ là những đối thủ lớn của Chúa Giê su trong suốt đời hoạt động của Ngài.
Lửa: câu nầy song song với Mc
1,7-8, nhằm nêu bật sự vượt trội và mới mẻ của Chúa Giê su đối với Gioan. Mt
dùng câu nói quan trọng ấy để trình bày Chúa Giê su như là đấng sẽ làm phép rửa
“trong Thánh Thần và lửa” (x. Lc
3,16; còn Mc thì chỉ nói “trong Thánh Thần”,
1,8). Có lẽ Lc hiểu đó là lửa của ngày Hiện Xuống (Cv 2,3-4) còn Mt thì đúng
hơn đó là lửa thanh tẩy thiêu huỷ tất
cả những gì là không trong sạch (3,12).
SỨ ĐIỆP
Nói đến Lễ Giáng sinh người
ta thường liên tưởng đến hài nhi Giê su mới sinh bé bỏng dễ thương nằm trong
máng cỏ
Thế nhưng hôm nay, Gioan
Tẩy giả lại mạnh mẽ đề ra cho chúng ta chân dung khác hẳn của một Đấng đang ngự
đến.
Vào thời của ông, Pa lết
ti na bị quân La mã chiếm đóng từ năm 90. Vua Hê rô đê mà người La mã đặt lên
cai trị đất nước nầy bị mọi người khinh ghét. Các phe phái tôn giáo thì chia rẽ:
có những người cộng tác nhưng cũng có những người chống đối; nên vừa nghe có một
nhân vật nào đứng lên hứa hẹn mang lại giải thoát, cứu độ, thì tai họa ập đến.
Chính trong hoàn cảnh khó
khăn đó mà Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Ngài trải qua thời niên thiếu trong
sa mạc Giu đê. Thật ra, vùng nầy không hoàn toàn là sa mạc, nhưng tác giả Tin mừng
muốn mượn cảnh trí ấy để nói với chúng ta về sa mạc thiêng liêng. Khi Thiên
Chúa dẫn con người vào sa mạc, chính là để mời gọi họ tạo nên khoảng trống
trong tâm hồn và lập lại trật tự trong cuộc sống. Như thời ông Mô sê trên núi
Si nai, Người muốn lập giao ước với mỗi người chúng ta. Chính vì thế, cần thiết
phải tránh xa sự huyên náo của lễ Giáng sinh, để trong thinh lặng và suy niệm,
chúng ta mới có thể thực sự lắng nghe Lời Thiên Chúa.
Hôm
nay, sứ điệp của Gioan Tẩy giả trực tiếp nói với chúng ta. Ông dùng ngôn ngữ nhẹ
nhàng để khuyến khích những người khiêm nhu, nhưng lớn tiếng cảnh cáo những kẻ
kiêu căng. Thật ra, ông không để lòng ghen ghét ai cả, nhưng giận dữ trước những
cách hành xử và cách sống của họ. Mục đích của ông là nhằm trấn an những người
thấp cổ bé miệng, đặc biệt thức tỉnh những người tự cho mình là hoàn thiện. Ông
chỉ cho mọi người thấy những gì cần phải thay đổi. “Nòi rắn độc” là kiểu nói mạnh mẽ, ám chỉ đến tên cám dỗ ở vườn địa
đàng trần gian. Bảo ai là “nòi rắn độc”
có nghĩa là tố cáo người đó sai phạm, là nói rằng họ thuộc về cùng một dòng dõi
ma quỉ.
Nếu
Gioan Tẩy giả phản ứng quyết liệt như thế, chính là để cảnh giác mọi người: ông
loan báo cuộc phán xử nghiêm minh của Thiên Chúa bên trong từng người chúng ta.
Tất cả những gì tiêu cực trong chúng ta sẽ bị thiêu đốt. Giống như người làm vườn
chọn lựa những cành tốt, và cắt tỉa, loại bỏ những cành xấu, để toàn thân cây
được lớn mạnh. Chỉ có những gì tích cực trong mỗi người chúng ta sẽ được giữ lại,
đặc biệt tình yêu thương, chia sẻ, liên đới. Đó là những điều làm cho cuộc sống
nên tốt đẹp và sẽ giữ được giá trị muôn đời. Ngược lại, có những cách hành xử
và cách sống không thể làm cho chúng ta hãnh diện. Mùa Vọng chính là thời điểm
thuận tiện để tiếp nhận tình yêu thanh tẩy của Thiên Chúa và mở rộng tâm hồn để
đón nhận niềm hi vọng.
Nhưng
tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu như chúng ta chấp nhận thay
đổi thực sự bản thân mình, chấp nhận canh tân cuộc sống. Hoán cải, không chỉ là
cảm nhận một đà sống mới, nhưng còn phải sinh hoa trái nữa. Chúng ta phải làm
sao để cuộc đời chúng ta ăn khớp với lời nói cũng như suy nghĩ của chúng ta.
Khi chỉ có những lời nói suông, mà không thể hiện đức tin của mình trong cuộc sống,
chúng ta chỉ là một cây cằn cỗi, không sinh hoa trái. Người ta có thể có một
khám phá sâu xa về tin mừng, người ta có thể ngạc nhiên khi được hiểu biết rõ hơn về Chúa Giê su và
thấy sự thật nơi sứ điệp của Ngài; nhưng nếu chỉ có thế, chúng ta bỏ quên điều
cốt yếu nhất.
Sau
nầy Chúa Giê su sẽ nói với chúng ta: chỉ nói không thôi thì chưa đủ, cần phải
thực hiện nữa. Nếu không như thế, thì những gì chúng ta tin chỉ là vô ích mà
thôi. Gioan Tẩy giả chế nhạo người Do thái tưởng rằng mình được cứu độ chỉ vì
mình thuộc về dân ưu tuyển. Và đó là mối nguy cơ mà Gioan Tẩy giả muốn cảnh
giác chúng ta.
Hoán
cải, tức là yêu thương như Chúa Giê su và cùng với Ngài. Lễ Giáng sinh gần kề
khiến cho nhiều người có những cử chỉ liên đới và trợ giúp những người bất hạnh.
Người ta cố gắng mang lại niềm vui cho những người cô đơn, những người đau yếu,
những kẻ tù đày, những kẻ bị xã hội lọai trừ. Ngang qua những người bất hạnh
đó, họ đã gặp chính Chúa, Ngài hiện diện ở giữa cuộc sống của chúng ta. Ngài là
đường, sự thật và là sự sống.
Hóan
cải tức là quay trở lại, và đi đúng hướng theo sau Đức Ki tô; là trở về với Cha
đang chờ đợi chúng ta; là rời khỏi chính mình để có cùng một cái nhìn của Đức
Ki tô về người khác. Sự hoán cải ấy, chúng ta phải bắt đầu mỗi ngày, vì nó
không bao giờ là hoàn toàn xong cả. Rất thường, chúng ta tổ chức cuộc sống của
chúng ta mà không có Đức Ki tô và ở ngòai Ngài.
Nhưng
Chúa không ngừng tìm kiếm chúng ta và mời gọi chúng ta bởi vì Ngài mang đến cho
chúng ta một tin mừng: “Nước Thiên Chúa
đang đến”. Nếu chúng ta được mời gọi hóan cải chính là để tiếp nhận ơn ban ấy
của Thiên Chúa. Trong mùa Vọng nầy chúng ta được mời gọi giải thoát chính mình
khỏi những vướng bận ngăn cản không cho chúng ta sẵn sàng chào đón Chúa ngự đến.
“Nước Thiên Chúa đang hiện diện”. Chỉ qua
Chúa Giê su chúng ta mới được ban cho Hồng phúc Nước Trời. Nhờ Ngài, chúng ta
trở thành con cái Thiên Chúa. Và khi chúng ta cử hành Thánh lễ, cũng chính Chúa
Giê su đến gần chúng ta. Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nhất là
Ngài trở nên lưong thực; Ngài trở thành nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui
và tin tưởng cho chúng ta”.
Hóan
cải để tiếp nhận trong niềm vui ơn ban tuyệt vời ấy của Thiên Chúa. Và chỉ như
thế, chúng ta mới thực sự cử hành Lễ Giáng sinh.
ĐÀO SÂU
ĐẤNG CỨU ĐỘ SẼ ĐẾN
Is
11,1-10 Đấng Mê-si-a là Vua Hòa bình
Tv
72,1 Nầy đây đã đến ngày hòa bình và công chính không bao giờ chấm dứt
Rm
15,4-9 Lời Chúa sẽ mang lại niềm Hi vọng cho muôn dân nước
Mt
3,1-12 Gio-an Tẩy giả loan báo Đấng Mê-si-a đến để phán xét thế gian
1. HỎI: Các bài đọc được
liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: ĐẤNG CỨU ĐỘ SẼ ĐẾN. Tiên
tri I-sai-a (Bđ1) và tác giả Thánh Vịnh loan báo một đấng Mê-si-a sẽ đến khai mạc
vương quốc hòa bình trên trần gian. Gio-an Tẩy giả (BTM) loan báo đấng sẽ thanh
tẩy trong Thánh Thần và trong lửa. Đức Ki tô thực hiện các lời loan báo ấy.
Ngài là Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa gửi đến cho dân Ngài và cho toàn thể nhân loại
để thông ban lòng thương xót của Thiên Chúa.
2. HỎI: Nội dung bài đọc một
(Is 11,1-10) như thế nào?
THƯA: Bài đọc một nói về gốc tổ
Giê-sê, cha của vua Đa-vít. Năm câu đầu cho biết ai là chồi non mọc lên từ gốc
tổ ấy, và công trình của Ngài. Năm câu sau nói về thành quả của công trình ấy:
một thế giới mới được mô tả bằng những hình ảnh rất cụ thể. Một đấng Cứu thế sẽ
xuất hiện, Ngài là hậu duệ của Vua Đa-vít, thiết lập triều đại công chính và
bình an.
3. HỎI: Tại sao Tiên tri
I-sai-a lại quay về gốc tổ Giê-sê?
THƯA: Tiên tri I-sai-a đã rất thất vọng trước những gì mà các hậu duệ Vua
Đa-vit đã làm. Các vua A-kha, Ê-giê-kia đã nhiều lần mạo hiểm liên minh với Ai Cập chống lại Át-si-ri. Do đó các tiên tri không còn hy vọng Đa-vít
mới xuất hiện trong hàng con cháu nữa, mà quay trở về gốc
Giê-sê, cha của Vua Đa-vit, tức là trở về nguồn cội của vương quyền.
4. HỎI: ‘Gốc tổ Giê-sê’
là ai?
THƯA: Khi nói đến ‘gốc tổ
Giê-sê’ Tiên tri I-sai-a muốn đề cập đến triều đại Vua Đa-vít. Ông Giê-sê
có tám người con. Thiên Chúa sai tiên tri Sa-mu-ên đến chọn một vị vua trong số
8 người con ấy. Điều lạ lùng là Sa-mu-ên vâng lệnh Thiên Chúa không chọn đứa lớn
nhất, đứa to nhất hay khỏe nhất, mà lại chọn đứa nhỏ nhất đang chăn chiên ngoài
đồng. Chính đứa bé ấy sẽ trở thành Vua vĩ đại của dân Ít-ra-ên. Giê-sê nhờ vậy
mà trở nên nổi tiếng: ông là cha của Vua Đa-vit, là tổ của một dòng dõi được so
sánh như một cây hứa hẹn một tương lai huy hoàng, một cây không bao giờ tàn úa.
5. HỎI: Tại sao triều đại
Vua Đa-vit không bao giờ tàn tạ?
THƯA: Vì qua miệng tiên tri Na-than, Thiên Chúa đã hứa cho dòng dõi
Đa-vít sẽ cai trị đời đời và dân tộc của ông cuối cũng sẽ được thống nhất và
hòa bình.
6. HỎI: Các vua trong triều
đại Vua Đa-vit có xứng đáng với lời hứa tốt đẹp ấy không?
THƯA: Không. Hoa trái cây ấy làm
cho người ta thất vọng: không một vua nào trong triều đại Đa-vít thực hiện hoàn
toàn những lời hứa ấy. Thế là người ta lại tiếp tục hi vọng, vì Thiên Chúa đã hứa
thì sớm muôn gì rồi Ngài sẽ thực hiện.
7. HỎI: Như thế ý nghĩa
tên gọi ‘Đấng Mê-si-a’ đã thay đổi?
THƯA: Đúng vậy. Lúc đầu, Mê-si-a
là tên gọi tất cả các vua vì có nghĩa là ‘Đấng được xức dầu’. Nhưng về sau, Mê-si-a
có nghĩa là vì ‘Vua lí tưởng’, đấng mang lại hạnh phúc và công chính cho trần
gian.
8. HỎI: Tiên tri I-sai-a có ý gì khi nói ‘sẽ đâm ra một nhánh nhỏ’?
THƯA: Tiên tri muốn loan báo cho người đương thời rằng: tạm thời,
anh em có cảm tưởng như tất cả các lời hứa đều không thực hiện, và cây gia phả
nhà Đa-vít không sinh điều gì tốt. Nhưng dù là một cây đã chết, Thiên Chúa cũng
sẽ cho nó đâm ra một mầm nhỏ, hứa hẹn một chồi non và một cây tươi tốt. Hãy vững
tin rằng sớm muộn gì đấng Mê-si-a sẽ xuất hiện.
9. HỎI: Tiên tri I-sai-a
nói về đấng Mê-si-a đó như thế nào?
THƯA: Tiên tri dành phần đầu
(11,1-5) mô tả Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị nầy, cùng với các ơn ban của
Người; ơn khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược và dũng mãnh, hiểu biết và kính sợ
Thiên Chúa. Đặc biệt, I-sai-a nhấn mạnh đến sự công chính mà Ngài sẽ coi như mẫu
mực cho sự cai trị để đem lại hòa bình trên đất nước.
10. HỎI: Phần thứ hai bài đọc một nói gì?
THƯA: Phần thứ hai bài đọc một (11,6-10) có thể được gọi là dụ ngôn
về các thú vật, một hình ảnh tuyệt vời để nói về sự hòa hợp trong vũ trụ. Cảnh
tượng đó không phải là trở về khung cảnh Vườn địa đàng lúc ban đầu, mà là điểm
kết thúc tốt đẹp công trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho toàn thể tạo thành.
11. HỎI: Đấng được gọi là
‘Cội rễ Giê-sê’ ấy là ai?
THƯA: Là chính Đức Giêsu, đấng
đã nói: “Khi ta được treo lên khỏi đất,
ta sẽ kéo mọi sự đến với ta” (Ga 12,32). Ngài đã thực hiện lời sấm I-sai-a:
“Đến ngày đó, cội rễ Giê-sê đứng lên làm
cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ
vinh quang” (11,10).
12. HỎI: Bài đọc hai (Rm
15, 4-9 ) có nội dung như
thế nào?
THƯA: Thánh Giacôbê khuyến khích các tín hữu hãy làm như bác nông
phu: đã gieo giống rồi thì thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ
đợi thôi: “Anh em hãy bền chí và vững
tâm, vì Chúa đã gần đến”.
13. HỎI: Bối cảnh lịch sử bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Khi Gio-an Tẩy giả bắt đầu rao giảng thì ách đô hộ của người
La mã đã kéo dài gần 90 năm (-63-27): vua Hê rô đê vẫn được người La mã cho tại
vị, nhưng bị mọi người thù ghét; các phe phái tôn giáo chia rẽ nhau và người ta
không còn biết tin vào ai. Có những người cộng tác và cũng có kẻ chống đối.
Cũng có người đứng lên, hứa hẹn cứu độ, nhưng rồi lại thất bại.
14. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Mt
3,1-12) như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng thuộc phần mở đầu Tin mừng Mát-thêu (1-4). Sau
tin mừng thời niên thiếu (1-2), Mát-thêu bắt đầu nói đến lời rao giảng của
Gio-an Tẩy giả (Mt 3,1-12) chuẩn bị phép Rửa Đức Giê-su và cuộc thử thách của
Ngài chuẩn bị cho sứ vụ công khai. Có 3 ý chính: 1. Bản thân và sứ vụ của Gioan
(3,1-6); 2) Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); 3) Lời rao giảng về Đấng Mê-si-a
(3,11-12).
15. HỎI: Sa mạc Giu-đa ở đâu?
THƯA: Sa mạc Giu-đa nằm giữa sông Gio-đan và Giê-ru-sa-lem. Vùng nầy
không hoàn toàn là vùng sa mạc, nhưng điều quan trọng đối với Mát-thêu không phải
là khung cảnh hoang vu mà là ý nghĩa thiêng liêng của sa mạc: ông nghĩ đến kinh
nghiệm của dân Ít-ra-ên trong sa mạc qua biến cố xuất hành và suy tư của các
tiên tri về Giao Ước và về tình yêu mà tiên tri Hô-sê gọi là đám cưới giữa
Thiên Chúa và dân Người.
16. HỎI: Diện mạo Gio-an Tẩy giả giống ai?
THƯA: Diện mạo Gio-an Tẩy giả từ y phục, thức ăn, đều giống các tiên
tri lớn trong thời Cựu ước. Lời rao giảng cũng theo truyền thống các tiên tri:
ông cũng có ngôn ngữ giống như họ: dịu dàng để khuyến khích những người khiêm
nhu, và nghiêm khắc để cảnh giác những kẻ kiêu căng. Mục đích vừa trấn an những
kẻ bé nhỏ, thức tỉnh những người tự phụ, nói chung lôi kéo mọi người chú ý đến
cách sống của mình.
17. HỎI: Gioan giới thiệu Đấng Mê-si-a như thế nào?
THƯA: Đấng Mê-si-a được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần
Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử dân Ít-ra-ên đã đến
hồi kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay
chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo.
18. HỎI: Người nông phu là ai?
THƯA: Nhưng người nông phu là chính Đức Ki-tô. Ngài đã cầm nia trong
tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người
gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó. Điều ấy cho thấy
Ngài là Thiên Chúa, vì trong Cựu Ước, Thiên Chúa được giới thiệu là quan án duy
nhất, đấng thấu suốt lòng dạ con người, và biết rõ con người theo sự thật.
19. HỎI: Gio-an còn cách nói nào khác cho chúng ta biết Đức
Giê-su là ai không?
THƯA: Gio-an còn có một cách khác rất gợi hình để nói cho chúng ta
biết Đức Giê-su là ai: “Đấng đến sau tôi
thì quyền thế hơn tôi, và tôi không xứng đáng xách dép cho Người”. Chúng ta
thử hình dung cảnh tượng nầy: để đi xuống dòng sông Gio-đan, người ta phải cởi
giày ra. Khi một nhân vật quan trọng có người hầu đi theo, thì chính đầy tớ nầy
phải cởi giày giúp ông. Còn nếu là môn đệ, thì người ấy sẽ nghĩ rằng mình cao
trọng hơn đầy tớ, nên không cần phải cúi xuống cởi dép cho thầy mình. Thế mà
ông Gio-an lại cho rằng mình không xứng đáng làm môn đệ, cũng như làm đầy tớ của
Đức Giê-su.
20. HỎI: Tại sao Gio-an lại tự hạ mình như vậy?
THƯA: Vì Đức Giê-su là đấng sẽ
thanh tẩy, sẽ dìm nhân loại vào trong lửa của Chúa Thánh Thần. Nếu có mặt ở
trên bờ sông Gio-đan lúc ấy, tiên tri Gio-ên sẽ nói: “Nầy, chính tôi đã báo trước rằng cuối cùng sẽ đến ngày mà Thiên Chúa
ban tràn Thần khí của Người trên mọi xác phàm” (Ge 3,1)
21. HỎI: Sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Thị kiến tiên tri
I-sai-a khiến tâm hồn chúng ta đầy tràn niềm vui và hi vọng. Dù nó vẫn là một
lí tưởng khó đạt tới, nhưng chúng ta phải luôn luôn hướng về niềm hi vọng ấy.
2. Cuộc sống Đức Giê-su cho thấy Ngài không phải là quan án xét xử nghiêm khắc,
nhưng là một vị mục tử đầy lòng thương xót. Ngài loan báo việc xét xử nhưng chỉ
trong bước thứ hai mà thôi. 3. Càng gần đến lễ Giáng sinh, lòng chúng ta càng
phải được củng cố niềm cậy trông vào chương trình cứu độ kì diệu của Thiên
Chúa. Trước nhiều thử thách, kế hoạch ấy đã hoàn thành nơi Đức Giê-su môt cách
mĩ mãn.
GLCG 523. Thánh Gio-an Tẩy
Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa [26], đã
được sai đến để dọn đường [27]. Thánh nhân là “ngôn sứ
của Đấng Tối Cao” (Lc l, 76), trổi vượt tất cả mọi Tiên tri
[28] , và là vị Tiên tri cuối cùng[29] . Thánh nhân
khởi đầu Tin Mừng [30]; ngay từ trong lòng mẹ đã đón
chào Đức Kitô đến [31], và tìm thấy niềm vui trong việc
được làm “bạn của chú rể” (Ga 3, 29), Đấng mà thánh nhân chỉ cho biết là Chiên
“Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga l, 29). Thánh nhân đi trước Chúa
Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1, 17), và làm chứng
cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối
cùng bằng cuộc tử đạo của mình [32].