Trang Chủ > Suy Niệm > Thường Niên 26-34 > Tuần 33

CHỦ NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN

1.JPG

Trong những lúc căng thẳng, tranh chấp, và bị thử thách, nhiều khi người ta tự hỏi: Thiên Chúa đang làm gì? Tại sao Người không can thiệp? Chúng ta muốn Người can thiệp ngay tức khắc, một cách lạ lùng. Nhưng Thiên Chúa kiên trì. Chưa đến lúc tách cỏ lùng ra khỏi lúa tốt, vì sợ mất một vài hạt lúa tốt.

Tiên tri Ml 3,19-20a

Trở về từ đất lưu đày, người Do thái hi vọng có Bình an và Hạnh phúc, nhưng trên thực tế thì họ lại tiếp tục sống dưới ách thống trị của người Ba tư. Đức tin sụp đổ. Tôn giáo trở thành hình thức. Tiên tri Ma la ki bấy giờ gióng lên một lời kêu gọi mạnh mẽ: Dân phải đầy lòng tin tưởng tiếp tục hướng về tương lai.

Thánh Vịnh 97

Ngày của Chúa đang đến gần. Ngày ấy đang tỏ hiện. Ước gì mọi người và toàn thể tạo vật nhảy mừng hân hoan vì “Ngày của Chúa” không khiến người ta hoảng sợ, nhưng mang lại Niềm Vui và Hạnh Phúc.

Thư 2 Tx 3,7-12

Niềm hi vọng vào “Ngày của Chúa” đến trong nay mai đã khiến người tín hữu Tê xa lô ni ca có một thái độ thụ động nguy hiểm. “Cần gì phải làm việc nữa, chỉ còn chờ đợi lúc tận cùng mà thôi”. Phao lô phản bác quan niệm về việc Chúa đến một cách máy móc như thế, vì nó không ăn nhập gì với cuộc sống người ki tô hữu cả. Trái lại, sự chờ đợi ơn Cứu độ cuối cùng phải mang lại cho hoạt động hằng ngày một ý nghĩa. Nếu không, thì chỉ là sống trong mơ mộng, ảo tưởng. Việc làm của chúng ta mang lại cho sự sống giá trị của nó.

Tin mừng Lc 21,5-19

NGỮ CẢNH

Đọan văn nầy là bài diễn từ về lúc tận cùng của thời gian. Cũng như Mt và Mc, Lu ca  cũng đưa ra một diễn từ dài viết theo lọai văn khải huyền mà sách Đa ni ên đã sử dụng 200 năm trước, và vẫn còn được sử dụng trong văn chương Híp pri thời Chúa Giê su. Lc cũng đặt diễn từ nầy sau một loạt các tranh luận gay gắt giữa Chúa Giê su và các lãnh đạo dân Do thái và ngay trước trình thuật Khổ nạn. Do vậy, đây là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giê su.

Có ba khẳng định chính yếu: không nên tin rằng việc Con Người trở lại vinh quang sẽ diễn ra nay mai, vì sẽ có một khoảng thời gian dài bách hại và thử thách đi trước. Tuy vậy, chiến thằng là chắc chắn: Nước Thiên Chúa sẽ được Con Người thiết lập. Vì thế.  thái độ của người tín hữa là phải kiên trì, tỉnh thức, cầu nguyện và hi vọng.

Có thể đọc đoạn văn theo cấu trúc sau đây:

1. Nhập đề: (21,5-7)

2. Cảnh giác mở đầu (21,8-9)

3. Các dấu chỉ và thiên tai (21,10-11);

4. Những biến cố xảy ra trước: bách hại, phải kiên trì (21,12-19);

TÌM HIỂU

Có mấy người: nếu đọc Mc 13,1-4. ta có thể nghĩ đến bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giê su kêu gọi. Nhưng Lc không cho biết chính xác như thế. Ngược lại, dường như ông muốn nói rằng Chúa Giê su nói với tất cả đám đông, như sau khi Ngài đi vào đền thờ (19,48; x. 20,1.9.26.45; 21,38) và như trong trường hợp diễn từ trên đồng bằng (x.6,17-19). Do đó, diễn từ sau cùng của Chúa Giê su nói với toàn dân Do Thái, và qua đó với toàn dân Ki tô giáo.

Đền thờ: sau khi đến Giê ru sa lem, Chúa Giê su đi vào trong đền thờ (19,45). Từ đó, tất cả giáo huấn của Ngài, cho đến câu 21,38, diễn ra trong nơi thánh nầy.

Vua Hê rô đê đại đế khởi công việc trùng tu đền thờ vào năm 18 trước CN (x. Ga 2,20). Do vậy, đền thờ hoàn toàn mới khi Chúa Giê su nói.

Những đồ dâng cúng: sát nghĩa: “những gì để trên” (bàn thờ hoặc đền thờ); đó là những của dâng cúng tự nguyện của tín hữu vào việc xây cất hoặc trang hoàng đền thờ.

Không còn tảng đá nào trên tảng đá nào: lời loan báo khủng khiếp, đã được ám chỉ trong câu 19,44. khởi đầu bằng công thức: “Sẽ đến những ngày”, mà Thánh Kinh vẫn dùng để dẫn vào các câu sấm đầy hăm doạ (x. 17,22; 19,43). Ở đây Chúa Giê su dùng lại kiểu nói mà nhiều tiên tri dùng để chống lại đền thờ (Mk 3,12; Gr 7,1-15; 26,1-19; Ed 8-11) vì lòng bất trung của Israel đối với Giao Ước. Sự bất trung nầy giờ đây được tỏ bày trong sự chối từ Chúa Giê su.

Bao giờ: câu hỏi của dân chúng gồm hai điều: thời gian đền thờ bị phá huỷ; và dấu chỉ báo trước sự gần kề. Mt và Mc cũng ghi lại câu hỏi kép nầy, nhưng câu trả lời của họ chuyển từ viễn tượng lịch sử sang ngay viễn tượng lúc cuối thời gian. Trái lại Lc chỉ bàn tới việc đền thờ bị phá huỷ, như thế để tránh cho người ta tin tằng việc đền thờ bị phá huỷ loan báo một kết cục gần kề của thế gian. Cách trình bày vấn đề nầy còn được nhấn mạnh ở cuối câu 9 “chưa phải là cùng tận ngay đâu”, và ở đầu câu 12 “Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra..”. Cả hai chi tiết cho thấy rõ Lc không đặt việc Giê ru sa lem bị tàn phá, xảy ra vào năm 70 trong tương quan gần kề với lúc cuối của lịch sử.

Anh em hãy coi chừng: lời cảnh giác nầy của Chúa Giê su nhắm đến hai hạng người xách động: những kẻ đến mạo danh Chúa Giê su nói rằng: “Chính là Ta đây”. Hoặc tệ hơn nữa, “Ta Là”, và những kẻ quả quyết rằng “thời giờ đã gần kề” (x. 10,11;19,11).

Chiến tranh: lời khuyên thứ ba: đừng để mình bị hoảng sợ vì chiến tranh hay các cuộc cách mạng, bởi vì những cuộc chính biến hay quân biến  (ám chỉ đến cuộc nổi loạn của người Do thái từ năm 66 đến năm 70 chăng?) không liên can trực tiếp đến lúc tận cùng thế gian. Tất cả những điều nầy xảy ra trước, nhưng không phải là dấu chỉ đi trước lúc tận cùng. Nói cách khác, lời cảnh giác đầu tiên (căn bản trả lời cho câu hỏi: khi nào?) nhấn mạnh đến mối nguy hiểm cho đức tin do việc sai lầm nghĩ đó là thời điểm tận cùng gần kề.

Rồi Người nói tiếp: câu nầy của riêng Lc, tiếp sau lời cảnh giác đầu tiên có giá trị cho cả diễn từ. Và cho biết đây là khởi đầu đúng nghĩa của diễn từ. Chúa Giê su sắp trả lời cho câu hỏi thứ hai, về các dấu chỉ đi trước lúc tận cùng. Lc trình bày các dấu chỉ nầy trong hai thời khắc quan trọng và phức tạp và đan xen vào nhau: thời khắc trước bao hàm thời khắc sau, trực tiếp báo trước việc Con Người đến (21,27), và niềm hi vọng mà biến cố ấy gợi lên trong lòng tín hữu (21,28). Thời khắc nầy gồm những biến cố lịch sử (21,10) hoặc hoàn vũ (21,11), được lặp lại trong cc. 25-26. Nó được đặt sau thời khắc trước, hoàn toàn trong lịch sử, được hiện thực trong cuộc bách hại các môn đệ (21,12-19) và việc dân ngoại tàn phá đền thờ (21,20-24).

Ôn dịch: là những hình ảnh truyền thống của văn chương khải huyền Do thái dùng để mô tả các biến cố báo trước lúc tận cùng thế gian. X. Is 24,19-20; Dc 14,4-5; Ed 6,11-12..

Ngược đãi anh em: đoạn nầy không thuộc thành phần của diễn từ Mt, thuộc về một ngữ cảnh khác (10,17-22). Đối với Mc, x. 13,9-13. Lc thuật lại một vài câu chuyện của cuộc bách hại nầy trong sách Công Vụ. Người ta hiểu đó là cuộc bách hại của người La mã dưới thời Hoàng đế Nê ron.

Vua chúa: chi tiết chính xác nầy cho thấy trước hoàn cảnh trong đó Phao lô sẽ bị điệu ra trước Vua Agrippa và Tổng thấn Festô.

Làm chứng: trong khi ở câu 18,9 Mc nói: “để làm chứng trước mặt họ (những kẻ bách hại), thì Lc lại nói (sát chữ): “Đó sẽ là cơ hội cho anh em làm chứng cho Thầy”. Theo cách nhìn của những người bách hại, Lc gợi ý rằng sự đau khổ của họ sẽ trở thành một chứng từ có lợi cho họ trước mặt Thiên Chúa. Từ “làm chứng” (trong hy ngữ martýrion sau nầy sẽ mang ý nghĩa là tử đạo.

Thầy sẽ cho anh em: khác với đoạn 12,11-12, Chúa Giê su xác định ở đây là chính Ngài sẽ ban cho chứ không phải là thánh Thần cảm hứng cho các môn đệ bị bách hại. Hơn nữa sự cảm hứng nầy không chỉ phù trợ trong cách ăn nói và sự khôn ngoan, mà còn ban cho một sức mạnh không gì có thể thắng được (so sánh với Mc 13,11). Củng thế, Lc sẽ nói rằng các người bách hại Tê pha nô  “không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần khí đã ban cho ông” (Cv 6,10).

Một số người trong anh em: hễ là người ki tô hữu thì sẽ bị ghen ghét, ngay cả trong gia đình, và bởi chính anh em bạn hữu mình. Nhưng Lc giảm nhẹ bầu khí u ám nầy bằng cách ghi chú rằng chỉ “một vài” người bị bách hại sẽ chết, khác với Mt và Mc.

Sợi tóc: trong hoàn cảnh đau thương này, Lc lặp lại một lời nói của Chúa Giê su mà ông đã ghi lại trong 12,7, nhưng theo một hướng hơi khác. Qua đó ông muốn nhắc cho người ki tô hữu nhớ rằng họ được bảo đảm bởi sự che chở của Thiên Chúa dù cho hoàn cảnh có xấu đến đâu đi nữa. Xem tác giả nhắc lại câu nói nầy trong biến cố Phao lô bị đắm tàu (Cv 27,34). Nhưng sự che chở của Thiên Chúa không nhằm mục đích đem ra khỏi các thử thách, nhưng trái lại bảo đảm ơn cứu độ.

Kiên trì: đối với Lc, các cuộc bách hại không có tương quan tức khắc với cuộc Chung Thẩm, nhưng là điểm đặc trưng trong tình huống tại thế của người tín hữu. Do đó ở đây, chỉ có ông thuật lại một lời nói có bao quát, có thể áp dụng cho bất cứ hoàn cảnh nào và ở bất cứ thời đại nào (so với Mc 13,13). Sự kiên trì nầy, thiết yếu để trổ sinh hoa trái (8,15), là cần thiết trong suốt cuộc thử thách của cuộc sống và đặc biệt trong hoàn cảnh bách hại. Điều đó có thể nhờ sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Nó giúp cho người tín hữu hi vọng vào cuộc sống (x. 17,33). Ta cũng có thể gặp thấy cung giọng đầy xác tín và tin tưởng trong c. 28.

         SỨ ĐIỆP

Đây là chủ nhật áp chót của năm Phụng vụ. Các bài đọc hôm nay gợi lên những biến cố kinh hoàng của thời thế mạt. Khi lướt nhanh qua Thánh kinh, chúng ta bắt gặp những cụm từ như ‘Đại Hồng Thuỷ’, ‘nô lệ bên Ai cập’, ‘lưu đày bên Babilon’, ‘phế tích đền thờ Giê ru sa lem’, ‘các cuộc bách hại’. Ngày nay các phương tiên truyền thông cũng tràn ngập những tin tức về những hăm doạ khủng bố, tai hoạ động đất, hiện tượng trái đất nóng dẩn lên và đủ mọi thứ thiên tai đang xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta. Vì thế, bài tin mừng hôm nay muốn làm sống lại niềm hi vọng của người tín hữu: Không, chưa phải là tận cùng của thế giới nầy đâu mà là tận cùng của một thế giới. Thế giới ấy đang chết và nó lên tiếng. Và đồng thời một thế giới mới đang xuất hiện, đang khởi đầu.

Thật vậy, bên cạnh những tai ương, Thánh Kinh cũng có những hình ảnh tích cực. Thiên Chúa hiện diện ngay giữa cuộc sống con người. Tất cả các bản văn Cựu Ước và Tân Ước loan báo cho chúng ta về sự giải phóng, sự gần gủi của Thiên Chúa, sự sống lại, ân sủng, ơn cứu độ. Hôm nay, Chúa Giê su nói với chúng ta về sự tàn phá thành Giê ru sa lem. Chúng ta có thể nhìn thấy thái độ hốt hoảng của các môn đệ khi nghe loan báo biến cố ấy.

Khi Thánh Luca viết tin mừng, thì lời tiên tri ấy đã thành sự thực. Đền thờ Giê ru sa lem đã bị Titô phá huỷ. Đó là cơ hội tốt để tác giả Tin mừng mời gọi người ki tô hữu tiến thêm một bước nữa: Từ nay đền thờ đích thật mà Thiên Chúa muốn ngự vào không phải là đền thờ bằng đá, dù nó có đẹp đến mấy đi nữa. Đền thờ đích thật chính là Thân xác của Đức Ki tô. Đó là điều mà chúng ta phải hiểu khi Chúa Giê su nói: “Phá huỷ đền thờ nầy đi và trong ba ngày ta sẽ xây dựng lại”.

Lời mạc khải ấy đưa đến các kết luận nầy: chúng ta không còn bằng lòng tìm Thiên Chúa trong cái xa hoa mà người ta trang hoàng đền thờ hoặc trong các nhà thờ bằng đá của chúng ta. Tất cả chúng ta đều là phần Thần Thể của Đức Ki tô, đền thờ mà Thiên Chúa muốn ngự. Nếu chúng ta muốn gặp Người, thì đừng quên tìm gặp Người giữa những người nghèo khổ, những người đói rách, những người đau yếu và tù tội. Đền thờ đích thật của Thiên Chúa chính là tâm hồn con người. Đền thờ bị tàn phá đúng nghĩa nhất, đó là nhũng thân xác bị huỷ hoại vì đói khát, bệnh tật, chiến tranh, thất nghiệp và bất hạnh.

Tái thiết đền thờ Thiên Chúa tức là hành động chung quanh chúng ta để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn, huynh đệ hơn và mở rộng vòng tay hơn. Điều đó phải bắt đầu từ trong gia đình, hàng xóm chúng ta, từ các mối tương quan của chúng ta hằng ngày. Chính đó là nơi mà Chúa chờ gặp chúng ta.

Khi chúng ta cử hành Thánh lễ, chúng ta đến kín múc tận nguồn dành cho sứ mạng mà Chúa giao phó cho chúng ta. Chúng ta mừng Đấng đã tự hiến cho đến cùng, đến chỗ dâng hiến cuộc đời mình. Chúng ta hãy xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng ta theo chiều kích của Ngài. Ước gì nhờ lời cầu nguyện, lời nói và sự liên đới, chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực cho niềm hi vọng.

ĐÀO SÂU

NGÀY CỦA CHÚA

Ml 4,1-2 Ngày của Chúa

Tv 98,5-6, 7-8, 9 Chúa ngự đến thống trị địa cầu trong đường chính trực

2 Tx 3,7-12 Hãy tiếp tục lao động chờ ngày Chúa trở lại

Lc 21,5-19 Bách hại là điềm loan báo Ngày của Chúa đến gần

1. HỎI: Ba bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?

THƯA: HÃY KIÊN TRÌ CHỜ ĐỢI NGÀY CỦA CHÚA. Sẽ đến ‘Ngày của Chúa’, ngày cả thế giới và vũ trụ này biến đổi, những kẻ gian ác sẽ bị tiêu diệt, còn những người công chính sẽ được vinh quang (Bđ1). Chúa Giê su cho biết những điềm báo trước để sẵn sàng chờ đợi (BTM). Thánh Phao lô khuyên tín hữu phải tiếp tục làm việc chờ ngày Chúa trở lại (Bđ2).

2. HỎI: Sơ lược bối cảnh bài đọc một?

THƯA: Tiên tri Ma-la-khi viết những dòng nầy vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên, trong lúc dân Ít-ra-ên trải qua một tình thế hết sức tuyệt vọng. Tất cả dường như mất hết đức tin, cạn dần hi vọng. Ngay cả các tư tế Giê-ru-sa-lem cũng thờ ơ trong việc cử hành phụng tự. Trước thực tế quá phủ phàng đó, hầu như ai cũng đặt câu hỏi: ‘Thiên Chúa đang làm gì? Người quên chúng ta rồi sao? Những kẻ làm ác thì cứ thịnh vượng, vậy thì cần gì phải giữ lề luật. Không có công bình. Cuối cùng thì Thiên Chúa có thực sự công chính không?’

3. HỎI: Tiên tri Ma-la-khi đã làm gì?

THƯA: Trước tình hình đó, Ma-la-khi bắt đầu sứ vụ tiên tri. Ông khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng Công chính, đang thực hiện công cuộc tái lập sự công chính nơi con người. Và để củng cố lời rao giảng, ông cho loan báo Ngày của Đức Chúa đang đến gần.

4. HỎI: ‘Ngày của Đức Chúa’ là ngày gì?

THƯA: ‘Ngày của Đức Chúa’ là ngày Thiên Chúa ngự đến xét xử trần gian. Người tín hữu nóng lòng chờ đợi ngày ấy, vì đối với những ai tin Thiên Chúa là Cha thì đó là một Tin mừng.

5. HỎI: Ông dùng hình ảnh gì để mô tả ‘Ngày của Đức Chúa’?

THƯA: Để mô tả ‘Ngày của Đức Chúa’, Ma-la-khi dùng hình ảnh mặt trời: ‘Này Ngày của Chúa đến đốt cháy như hỏa lò’. Nhưng đó không phải là một lời hăm dọa, vì hình ảnh hỏa lò nói lên tình yêu vô biên của Người.

6. HỎI: ‘Mặt trời’ Thiên Chúa nói lên điều gì?

THƯA: Cũng như không gì có thể bị che khuất dưới ánh sáng mặt trời, thì cả cuộc sống và toàn thể con người của chúng ta sẽ được phơi bày để được thanh tẩy: ‘Tất cả những kẻ kiêu căng, nhưng kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm, ngày sẽ đến sẽ thiêu hủy chúng, còn các người là những kẻ kính sợ danh Ta, nó sẽ mang lại sự chữa lành’ (Mlk 3,20).

7. HỎI: Trong mỗi người sự phán xét sẽ diễn ra như thế nào?

THƯA: Trong mỗi người, những gì phản ánh tình yêu Thiên Chúa, ‘kính sợ Thiên Chúa’, sẽ được biến hình. Còn những gì cản trở tình yêu Người, như sự ‘kiêu căng’ sẽ ‘cháy rụi như rơm’, hay sẽ ‘tan chảy như tuyết dưới ánh mặt trời’. Như thế, mục đích của sự Thiên Chúa phán xét chính là thanh luyện để rồi cuối cùng trong mỗi người chúng ta, Thiên Chúa sẽ nhận ra hình ảnh giống như Người.

8. HỎI: Tiên tri Ma-la-khi còn dùng hình ảnh nào nữa không?

THƯA: Có, tiên tri còn dùng hai hình ảnh nữa để mô tả về việc Thiên Chúa xét xử, đó là thợ luyện và thợ giặt. Người thợ giặt không tìm cách phá hư nhưng làm cho y phục đại lễ trở nên lộng lẫy hơn. Người thợ kim hoàn cũng vậy, không tìm cách tiêu hủy đồ trang sức nhưng làm cho nó được sáng bóng hơn. Việc Thiên Chúa xét xử cũng nhằm mục tiêu tương tự là làm cho con người được trong trắng và xứng đáng hơn.

9. HỎI: Bài đọc 2 (2 Tx 3,7-12) có nội dung như thế nào?

THƯA: Thánh Phaolô lấy chính bản thân ngài ra làm gương để khuyên tín hữu Tê-xa-lô-ni-ca đừng sống vô kỷ luật, nhưng phải biết làm lụng vất vả trong khi chờ Ngày Chúa đến.

10. HỎI: Ngữ cảnh bài Tin mừng (Lc 21,5-19) như thế nào?

THƯA: Chúa Giê su tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Bài Tin mừng là diễn từ dài bàn về số phận của Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ (21, 8-36). Có 2 ý chính: 1. Dẫn nhập vào diễn từ cánh chung (21, 5-7). 2. Diễn từ cánh chung (21, 8-19).

11. HỎI: Có nên hiểu theo mặt chữ bài Tin mừng không?

THƯA: Không. Thí dụ như lời tiên báo của Chúa Giê su: ‘Không còn tảng đá nào trên tảng nào’ (21,6) hoặc như lời khẳng định: ‘dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu’ (21,18). Những lời ấy chỉ là những cách diễn tả mà thôi.

12. HỎI: Cách diễn tả ấy như thế nào?

THƯA: Như tiên tri Ma-la-khi, Chúa Giê su dùng ngôn ngữ khải huyền, các hình ảnh tiên tri (như động đất, lửa, ôn dịch…) để loan báo một sự tạo dựng mới. Thiên Chúa sẽ phá hủy mọi mãnh lực sự dữ để khai mạc một thế giới mới, Vương quốc của Ngài.

13. HỎI: Cách diễn tả ấy nhằm mục đích gì?

THƯA: Tác giả Tin mừng không dùng cách diễn tả ấy để tiên báo tương lai một cách chính xác, nhưng chỉ nhằm giúp độc giả vượt qua các thử thách mình đang gặp. Một cách cụ thể, sứ điệp là: ‘Dù gì xảy ra, thì anh em cũng đừng sợ!’

14. HỎI: Đền thờ Giê-ru-sa-lem cho ta bài học nào?

THƯA: Cho ta bài học nầy: ‘Đừng dựa vào những giá trị giả trá’. Đền thờ được vua Hê-rô-đê tái thiết, rực rỡ như khối vàng ròng, nhưng nó cũng thuộc về thế giới sẽ qua đi.

15. HỎI: Chúa Giê su có nói rõ về ngày giờ cũng như cách thức Nước Trời hình thành không?

THƯA: Không. Chúa Giê su không cho biết chính xác về ngày giờ hoặc cách thức Nước Trời được hình thành. Khi được hỏi: ‘Chừng nào thì sự ấy sẽ xảy ra’, Ngài không trả lời mà chỉ đưa ra lời khuyên: ‘Hãy ý tứ đừng để mình bị lường gạt’.

16. HỎI: Như thế Ngài muốn dạy ta điều gì?

THƯA: Ngài muốn dạy chúng ta dù đang gặp tai ương hay bị bách hại phải có một niềm tin tưởng trung kiên, không gì có thể lay chuyển được.

17. HỎI: Kiểu nói ‘Vì danh ta’ có nghĩa gì?

THƯA: Kiểu nói ‘Vì danh Ta’ nói lên thần tính của Đức Ki tô. Trong ngôn ngữ của người Do thái, người ta rất thường dùng hai từ ‘Danh Thánh’ để nói về chính Thiên Chúa.

18. HỎI: Theo Lu ca, việc đền thờ bị phá hủy có liên quan đến ngày thế mạc không?

THƯA: Không. Khác với hai Tin mừng Mát thêu và Mác cô, Tin mừng Lu ca không liên kết hai biến cố ấy. Thánh Lu ca trước tiên quan tâm đến số phận của Đền thờ, rồi sau đó mới đề cập đến ngày thế mạt, không liên quan gì đến việc Đền thờ bị phá hủy.

19. HỎI: Chúa Giê su có ý gì khi tiên báo về Đền thờ?

THƯA: Khi báo trước Đền thờ bị phá hủy, Chúa Giê su có ý tiên báo Ít-ra-ên sẽ bị kết án và bị loại trừ.

20. HỎI: Tại sao Đền thờ bị phá hủy có nghĩa là Ít-ra-ên bị kết án và loại trừ?

THƯA: Đối với người Do thái, Đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện với dân Người. Bao lâu còn Đền thờ, thì bấy lâu Thiên Chúa còn hiện diện và họ vẫn còn là dân được tuyển chọn. Bởi đó, việc đền thờ bị phá hủy có nghĩa là họ đã bị bỏ rơi, bị cùng khổ và chịu nhục nhã như lời Tiên tri Ma-la-khi loan báo (3,21).

21. HỎI: Tại sao đền thờ phải bị phá hủy?

THƯA: Vì từ nay, Chúa Giê su là dấu chỉ duy nhất của Thiên Chúa ở giữa nhân loại.

22. HỎI: Chúa Giê su có cho biết chính xác ngày giờ xảy ra biến cố ấy chăng?

THƯA: Không. Dù được hỏi, nhưng Chúa Giê su không trả lời cho câu hỏi ấy, mà chỉ cảnh giác ki tô hữu trước các mối hiểm họa lớn hơn.

23. HỎI: Các mối nguy hiểm nào?

THƯA: Chúa Giê su khuyên các tín hữu đề phòng các mối nguy hiểm nầy:

- Những kẻ mạo danh lừa dối họ, tự xưng là những kẻ đến nhân danh Chúa.

- Những kẻ mạo danh loan báo thời giờ đã gần đến.

- Giải thích các biến cố như là dấu chi cho thấy ngày thế mạt đã gần kề.

24. HỎI: Trước những mối nguy hiểm đó, người ki tô hữu phải làm gì?

THƯA: Người Ki tô hữu phải:

- Cảnh giác: ‘Các con chớ nghe theo chúng’ (c 8),

- Anh dũng và kiên trì làm chứng trong cơn bách hại (c 13),

- Đừng lo lắng, nhưng đặt trọn niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa (c 14),

- Bền đỗ đến cùng (c 19).

25. HỎI: Thực thi sứ điệp Lời Chúa như thế nào?

THƯA: 1. Kiên trì trong nếp sống thường ngày, đều đặn, quanh đi quẩn lại bấy nhiêu việc không tên: ăn uống, lao động, ngủ nghỉ; Kiên trì trong điệp khúc ‘hãy làm lành, tránh dữ’, chẳng có gì là đặc biệt, chẳng có chi là nổi trội.

2. Đặc biệt kiên trì trong những lúc khó khăn, thử thách, vất vả và thậm chí khốn đốn vì niềm tin, cậy, mến vào Chúa Ki-tô và vào các giá trị, luật lệ của Ki-tô giáo giữa một thế giới vô đạo và tội lỗi.

GLCG 675 Trước cuộc Ngự đến của Đức Kitô, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu. Cuộc bách hại, luôn đi theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian, sẽ làm lộ rõ ‘mầu nhiệm sự dữ’ dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản Kitô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Messia giả hiệu, trong đó con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Messia của Ngài đã đến trong xác phàm. (x. Đức Ki tô phán xét kẻ sống và kẻ chết 678. Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh 675).

 

 

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên_Lm Giuse Phạm Hoàng Vũ
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên_Nt. Maria Nguyễn Thị Quỳnh Tiên, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên Năm B_Lm Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên B_Nt. Anna Têrêsa Thiên Hoàng, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên B_Nt. Maria Nguyễn Thị Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên B_Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh

Các bài viết cũ hơn
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên B: AI LÀ BÀ CON CỦA ĐỨC GIÊSU?_ Xuân Hạ, OMI
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên B: "THANH TẨY ĐỀN THỜ"_Nữ Tỳ Thánh Thể.
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường B: "CÁC KIỂU TIN"_Tam Thái
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên: "SINH LỢI NÉN BẠC CUỘC ĐỜI"_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên B: "Có Một Cái Nhìn Như Thế"_Phêrô Nguyễn Bùi Quốc SDB
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật XXXIII Thường Niên B: SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA LẠI ĐẾN_ Lm. Đan Vinh
     LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM: DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY_Lm. Đan Vinh
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật XXXIII Thường Niên B: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM_ Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật XXXIII Thường Niên B_ Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông
     Video: Thế Giới Nhìn Từ Vatican 13/11 – 19/11/2014: Năm Đời Sống Thánh Hiến