CHỦ NHẬT 4 CHAY A
Ánh sáng cho những người khiếm thị
Tội lỗi đã làm sụp đổ tất cả, biến mọi người sáng mắt thành
kẻ đui mù. Trong phép Rửa tội, người Ki tô hữu trở thành Ánh sáng. Nguồn Ánh
sáng ở nơi Thiên Chúa và chỉ thật sự xuất hiện ở nơi có Đức tin và Tình yêu
chiếu sáng. Chỉ khi nhận ra bản tính đặc biệt của Ánh sáng ấy cũng như sự đui
mù của mình, người tín hữu mới có thể cầu xin Chúa soi sáng mình.
Sách 1 Samuel 16, 1.6-7.10-13
Vị vua đầu tiên của Ít-ra-ên đã bị quyền hành làm tối mắt
nên đã bất tuân lệnh Thiên Chúa. Ông đã bị lọai trừ và sắp trở nên điên loạn
cho tới chết, nhường chỗ cho một Vua khác. Cuối cùng, tiên tri Samuên theo lệnh
của Thiên Chúa, đã đến nhà Yessê chọn người út sau khi loại bỏ các người con
khác. Ông xức dầu và hiến thánh đứa con ấy để trở thành Vua Israen. Đó là Đại
Vương Đa vít, hình ảnh của Đấng Messia.
Thánh Vịnh 22
Sức mạnh thực sự đến từ lòng tin tưởng nơi Chúa. Chỉ có
Ngài là Mục tử đích thực có thể hướng dẫn loài người đến sự Sống. Chỉ nơi Ngài
các tín hữu mới tìm được ân sủng và hạnh phúc.
Thư gửi Êphêsô 5, 8-14
Nhờ phép Rửa, người ki tô hữu đã trở nên Ánh sáng để chiếu
sáng khắp nơi. Nhờ thấy rõ, họ biết chọn những giá trị đích thực, những giá trị
đáp ứng niềm ước mong của Chúa, và cũng có khả năng lột mặt nạ sự dối trá của
thế gian. Được sống lại từ cõi chết nhờ Đức Ki tô đã thông ban Ánh sáng của
Ngài, họ phải sống như những con cái ánh sáng.
Tin mừng: Ga 9,1-41
NGỮ CẢNH
Trong tin mừng Thánh Gioan, mới nhìn thí trình thuật
chương 9 dường như tách biệt khỏi các chủ đề được khai triển trong các chương 7
và 8 cũng như các chương 10 và 11. Thật ra, nó chiếm vị trí trung tâm và bảo đảm
tính duy nhất sâu xa cho tòan bộ các chương 7-11.
Có thể đọc theo cấu trúc sau đây:
1. (9,1-5): Chúa Giê su dạy các môn đệ ý nghĩa điều
sắp xảy đến
2. (9,6-7): Chúa Giê su chữa lành người mù và dạy
anh đi đến hồ Siloê
3. (9,8-12): người mù làm chứng trước những người
láng giềng
4. (9,13-17): người mù với những người Pha ri sêu
5. (9,18-23): người Do thái gọi cha mẹ người mù đến
6. (9,24-34): người Do thái phủ nhận lời chứng của
người mù
7. (9,35-38): Chúa Giê su giúp người mù nói lên niềm
tin của mình
8. (9,39-41); Chúa Giê su nói cho người Biệt phái
biết sự mù tối của họ.
TÌM HIỂU
Giêsu: trong phần khai triển
trình thuật, Chúa Giê su sẽ được giới thiệu bằng các tước hiệu của Người: Người
tên là Giêsu (9,11), một tiên tri (9,17), đấng Ki tô (9,22), đấng từ Thiên Chúa
mà đến (9,33), Con Người (9,35), Chúa mà người ta có thể tin (9,38). Một danh
sách tương tự được tìm thấy trong đoạn 1,29-31 và 4,1-42.
Nhìn thấy: như thường thấy, Chúa
Giê su luôn là người có sáng kiến: Ngài chữa lành và dẫn đến đức tin. Những người
bệnh không kêu xin Ngài như thường xảy ra trong các tin mừng Nhất lãm; ở đây,
chính Ngài thấy, đến và chữa lành.
Một người mù: chúng ta sắp chứng kiến
sự chuyển biến đầy ý nghĩa nơi người nầy: anh ta mất cái thiết yếu nhất cho
mình ngay từ lúc mới sinh ra; đôi mắt anh cuối cùng đã nhìn thấy; tâm hồn anh mở
ra cho một ánh sáng khác; anh khám phá nơi Chúa Giê su là Chúa; anh quyết định
theo Ngài và tin vào Ngài.
Các môn đệ: chỉ ở đây sự hiện diện của
họ được nói đến. Như những người tôi tớ xin chủ mình giải thích những gì sẽ xảy
đến. Rồi họ biến ngay. Nhưng Chúa Giê su sắp biến một người thành môn đệ sau
khi đã giáo huấn và soi sáng.
Tại sao?: các môn đệ đặt ngược vấn
đề. Họ tin có thể cắt nghĩa nguồn gốc căn bệnh nầy bằng cách tìm nguyên do nơi
tội. Trong khi thế giới ngọai giáo có một quan niệm số mệnh và tất định về thế
giới, thì dân tộc của Giao ước đã được dạy rằng sự bất hạnh phát xuất từ con
người. Thiên Chúa chỉ muốn và tạo dựng sự tốt lành mà thôi, vì thế, sự ác và tội
lỗi được đặt trong tương quan hỗ tương một cách mầu nhiệm. Sách Xuất hành thử
đưa ra một lời giải thích bằng cách trình bày sự xấu như là hậu quả của tội lỗi
của tiền nhân (20,5; 34,7). Êdêkiên (18,4) cố gắng rút gọn tương quan ấy vào
con người phạm tội mà thôi: “Ai phạm tội,
người ấy sẽ chết”.
Chúa Giê su tinh luyện những ý tưởng quá đơn giản ấy.
Mối liên kết giữa sự bất hạnh và tội lỗi không tức thì: người bất hạnh không phải
là người có tội nhiều hơn kẻ khác (Lc 13,1-5). Chúa Giê su bác bỏ và vượt qua
các đặt vấn đề đó: không nên nói đến số mạng, cũng như hình phạt. Chỉ có một sự
kiện là quan trọng: Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho những người bất hạnh chìm đắm
trong tội lỗi.
Công trình của Thiên Chúa: khi ban lại cho người mù
được sáng mắt, Chúa Giê su cho thấy một chương trình bao la hơn: Ngài cho thấy
sứ mạng cứu độ mà Cha đã giao phó cho Ngài. Chương trình bao gồm trong việc đưa
con người đến đức tin được bày tỏ trong công việc của Thiên Chúa thực hiện qua
Ngài và nhờ Danh Ngài: “Chúng tôi phải
làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? Việc Thiên Chúa muốn cho các
ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến”(6,28-29).
Chúng ta phải: Gioan dùng số nhiều có lẽ
để gợi lại sứ mạng của những người trong Giáo hội sơ khai trao ban bí tich Rửa
tôi, sự soi sáng đích thực.
Đêm đến: đối với Gioan, ngày là
thời gian các “dấu chỉ”, còn đêm là thời gian của Khổ nạn.
Ánh sáng: x. 8,12. Ánh sáng không
chỉ là cái mà mắt trông thấy. Nhờ đức tin có một sự thông hiệp cá nhân với đấng
là ánh sáng, bởi vì nó cho thấy Thiên Chúa. Chấp nhận Chúa Giê su lả điều khẩn
thiết; Ngài đã đến để mở mắt. Việc chữa lành người mù cắt nghĩa khằng định của
Chúa Giê su bằng một sự kiện.
Bùn: như ở trong Mc 7,33;
8,23 Chúa Giê su thực hiện những hành vi của một người chữa bệnh. Nhưng hành động
của Ngài được đặt trong bối cảnh của lễ Lều, có nghĩa là Ngài ban ánh sáng cho
phép người ta tiến tới đức tin.
Xilôác: đây là một cái hồ nối liền
với mạch nước Ghicon qua một hành lang (2 Bns 32,30; Is 8,6). Đó là một trong
những nơi diễn ra lễ Lều. Chúa Giê su, đấng được Cha Sai đến, sai người mù được
chữa lành hội nhập vào dân đang cử hành lễ ở nguồn suối của đấng được Sai đến.
Như thế việc chữa lành được đặt trong tương quan với một hành vi vâng phục
trong bối cảnh Giao ước. Cách hành xử tương tự của đức tin và sự vâng phục là
điều đòi hỏi nơi tất các ứng viên chịu phép Rửa tội.
Người tên là Giêsu: đây là mức độ thứ nhất của
cuộc gặp gỡ trong đức tin: một tương quan con người với một người lương thiện.
Người mù, một người lương thiện, đề cập đến những gì vừa xảy ra
Ông ấy ở đâu: Chúa Giê su đã bỏ đi; những
người khác nói về Ngài lúc Ngài vắng mặt. Nhưng sự vắng mặt ấy và những câu hỏi
của người Pha ri sêu sẽ là cơ hội cho người mù tiến lên trong đức tin.
Tôi không biết: thường người ta thấy sự
đối chọi giữa điều người ta biết và điều người ta không biết. Người mù lương
thiện chỉ nói đến điều mà anh đã thấy. Cha mẹ anh (9,20-21) từ chối đưa ra ý kiến.
Người Pha ri sêu (9.24.29) đối chọi tiên kiến của họ với những gì làm cản trở họ,
ngay cả sự hiển nhiên: “Chúng tôi biết rằng
người ấy là một kẻ có tội” (9,24).
Ngày sa bát: việc chữa lành xảy ra
trong ngày sa bát, như trong 5,10 đối với các địch thủ của Chúa Giê su là một cớ
để cáo buộc Ngài không trung thành với lề luật và do đó để bác bỏ Ngài. Ngược lại,
đối với Chúa Giê su thì đó là cơ hội để bày tỏ rõ ràng hơn hành động nhân ái của
Thiên Chúa trong ngày hiến thánh cho Người.
Họ đâm ra chia rẽ: Gioan cố ý nhấn mạnh đến
sự chia rẽ giữa người Biệt phài đối với Chúa Giê su. Đứng trước một người thực
hiện các việc của Thiên Chúa, có người tự hỏi, trong khi người khác tuyên bố
Ngài là người tội lỗi để không đặt cho mình những câu hỏi về Ngài.
Còn anh, anh nghĩ gì: người Pha ri sêu hiểu rằng
cần phải lựa chọn hoặc là ủng hộ hoặc là chống lại Chúa Giê su. Do vậy họ cố gắng
lôi kéo người mù để anh từ chối làm chứng cho Chúa Giê su: họ sợ rằng lời chứng
ấy gây ra nhiều thay đổi ý kiến.
Một vị ngôn sứ: người mù được chữa lành
tiến bộ trong đức tin: anh gán cho Chúa Giê su tước hiệu thứ hai.
Người do thái: người Pha ri sêu cảm thấy
khó chịu, chọn từ chối sự hiển nhiên. Cùng lúc đó họ thay đổi chiến thuật: họ cậy
vào lời chứng của cha mẹ anh mù ủng hộ họ.
Cha mẹ anh ta: họ đại diện cho tất cả
những người cảm thấy không nắm các vấn đề mà họ gặp và thích đứng ở giữa. Có những
sự kiện mà họ không thể chối từ, như việc con họ được chữa lành. Nhưng họ không
thể đặt vần đề về vai trò của Chúa Giê su trong việc chữa lành nầy. Tin mừng
cho thấy họ muốn trút trên con mình các câu hỏi mà người ta đặt ra cho họ.
Bị trục xuất: X. 12,42. Việc hăm dọa
trục xuất ra khỏi cộng đòan những người công nhận Chúa Giê su là đấng Messia là
điều Gioan đi trước, đặt trong thời Chúa Giê su một quyết định mà sau nầy những
người có trách nhiệm trong dân híp pri mới quyết định. Nhưng sự hăm doạ nầy đã
bắt nguồn từ sự giận dữ và từ thâm ý của người pha risêu như chúng ta thấy
trình bày ở đây.
Anh hãy tôn vinh Thiên
Chúa:
công thức thề để bắt một người nào đó nói lên sự thật: “Này
con, con hãy tôn vinh Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, và hãy suy tôn Người!
Hãy thú thật với ta những gì con đã làm, đừng giấu giếm gì cả ”(Gs 7,19).
Tin mừng trình bày Chúa Giê su dùng cả cuộc sống
mình để vinh danh Cha. Người Pha ri sêu trái lại cho rằng người mù vinh danh
Thiên Chúa nếu công bố rằng Chúa Giê su là một người tội lỗi. Cho rằng mình
bênh vực Thiên Chúa, họ cố gây áp lực trên anh: “Hãy nói điều chúng ta muốn và
biện minh cho chúng tôi”
Chúng ta biết: X, 12, người Pha ri sêu
và người được chữa lành (x. c.25) biết nhưng không cùng một cách. Họ sẵn sằng cắt
nghĩa chân lí theo hướng có lợi cho các tiên kiến của mình: họ biết trước. còn người được chữa lành thì
từ chối đưa ra một lời xét đóan; anh ta thành thật trình bày điều mà anh ta biết là một sự kiện không thể bác bỏ được.
Tôi đã nói với các ông rồi: trong câu trả lời nầy
chúng ta chỉ có thể thấy anh mù tỏ dấu giận dữ và đưa ra một lời mỉa mai ngầm.
Nhưng đi sâu hơn, người ta có thể giả thiết rằng ở đây Gioan muốn cho thấy người
ấy đã tiến bộ trong đức tin như thế nào trong mức độ mà anh ta cảm thấy bị bó
buộc làm chứng và người Pha ri sêu tìm được một khả thể để đón nhận chân lí.
Môn đệ: người được chữa lành
chưa tuyên bố là môn đệ Chúa Giê su. Nhưng những người khác nhận biết điều sẽ xảy
đến, dù họ không ý thức.
Ông Mô sê: Chúa Giê su đã phạm luật
ngày sa bát do Mô sê thiết định. Và đó là một cơ hội tốt để từ khước người tự
cho mình là tiên tri nầy. Nhưng Chúa Giê su hoàn toàn không đối lập với ông Mô
sê, nhưng thường chứng tỏ Ngài tiếp nối và đưa lề luật đến chổ hoàn tất
(5,45-47; 6,32; 7,19.22).
Mối nguy hiểm của người tín hữu là dựa vào một lời
Thiên Chúa nói để bảo vệ những lập trường đã có sẵn mà không chấp nhận mở ra và
sẵn sàng đón nhận tòan bộ mạc khải.
Chúng ta không biết ông
Giêsu ấy bởi đâu mà đến: tuy họ biết gia đình và làng mạc của Chúa Giê su
(6,42;7,41). Nhưng họ từ khước bất cứ ai tự hào là nói và hành động nhân danh
Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ đã nói rằng khi đấng Messia đến, thì không ai biết được
Ngài ở đâu (7,27): do vậy có thể họ thấy một dấu chỉ trong chính câu hỏi mà họ
đã đưa ra.
Thiên Chúa: đối với người đã được hưởng
lòng tốt của Chúa Giê su thì rõ ràng Thiên Chúa đã sai Ngài đến và Người đã biểu
hiện ngang qua Ngài.
Không nhậm lời: người mù dùng lí luận của
những kẻ đối thọai để trả lời cho họ (9,16). Nếu Thiên Chúa đã nghe lời Chúa
Giê su, thì điều đó có nghĩa là Ngài không phải là một người tội lỗi.
Chúa Giê su: Ngài đã biến đi để lại
người được chữa lành tự do tiến lên trong đức tin nhờ vào các chứng cớ. Đã đến
lúc niềm tin ấy có thể được công khai nói lên. Như thế Chúa Giê su lần thứ hai
có sáng kiến gặp gỡ.
Trục xuất: sự từ khước nầy khởi đầu
cho việc giải thoát: giờ đây người mù được chữa khỏi có khả năng chọn lựa và kết
hợp với Chúa Giê su.
Anh có tin?: và đến giai đoạn chót, đến
lời tuyên xưng long trọng của đức tin, giai đoạn mà mọi ứng viên phép rửa đều
phải thực hiện. Niềm tin cần phải có đối với Con Người, sứ giả của Thiên Chúa
là con người Giê su; niềm tin được tuyên xưng đối với Chúa, bởi vì người mù, giờ
được thấy đã nhận ra tương quan giữa Chúa Giê su và Chúa Thiên Chúa. Anh ta đã
thấy và đã tin.
Anh sấp mình xuống trước mặt
Người:
đây là dấu nhận biết quyền Chúa nơi Chúa Giê su.
Xét xử: mọi sự can thiệp của Chúa
Giê su đều nêu lên một câu hỏi cho những ai Ngài gặp gỡ. Nó tạo ra một sự phân
biệt: người thì học được cách nhìn thấy;
còn người khác tưởng là đã nhìn thấy tất cả, thì ở lại trong bóng tối.
Đui mù: qua câu hỏi nầy, người
Pha ri sêu cho thấy rằng họ không nhận ra là họ từ chối nhìn thấy chân lí. Ở phần
đầu trình thuật, sự mù lòa thể lí đã được cắt nghĩa như là mợt hậu quả của tôi
lỗi (9,2 và 34). Trình thuật kết thúc bằng lời xác nhận: có một sự mù lòa bắt đầu
từ nguyên nhân tội lỗi.
Tội: Chúa Giê su đã thành
công trong việc dẫn người mù đi trên con đường đến ánh sáng đức tin. Chỉ có
Ngài mới có thể xác nhận sự kiêu căng và cứng đầu làm cho họ không thể đươc soi
sáng nơi những người tưởng mình thấy nhưng kì thực không thấy.
SỨ ĐIỆP
Thỉnh thoảng chúng ta gặp những người khiếm thị đi
trên đường, và chúng ta luôn bị bất ngờ vì sự quyết đoán cũng như tài khéo léo
trong sự di chuyển của họ. Dường như khả năng thính giác của họ phát triển nhiều
hơn bình thường để bù lại cho sự khiếm khuyết về thị giác. Thậm chí một vài người
còn nói: “Bây giờ tôi nghe ‘THẤY’ tiếng chim hót”.
Người mù trong bài tin mừng hôm nay nhớ lại rõ
ràng hành động của Chúa Giê su: “Ngài đã
lấy bùn xức vào mắt tôi”. Đó không phải là thần dược nhưng có mục đích nói
lên ý nghĩa của hành động Chúa Giê su. Trình thuật sáng tạo trong sách Sáng thế
kể lại rằng Thiên Chúa đã tạo nên con người từ “bụi đất”. Đối với Chúa Giê su, thì việc chữa lành người mù là một
sáng tạo mới. Con người mới, hoàn toàn được canh tân từ nay có thể nhìn thấy
Thiên Chúa. Bùn trong mắt còn có một ý nghĩa khác. Tội lỗi chúng ta làm cho cái
nhìn chúng ta trở nên mù lòa. Vì tội lỗi, chúng ta không còn có thể nhìn thấy
Thiên Chúa là cha chúng ta, và nhìn người khác như là anh em có một vị trí ưu
tiên trong trái tim của Thiên Chúa. Đồng thời, cách nhìn về chính chúng ta hoàn
tòan bị che khuất. Chúng ta bị lún sâu trong tội lỗi, chúng ta thất vọng về
chính mình, chúng ta quên rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong hiện trạng
mình đang sống.
Sứ mạng của “đấng nhìn thấy Cha” là giải thoát cái
nhìn nội tâm chúng ta khỏi những gì làm hoen ố và ngăn cản chúng ta thấy những
kì công của Thiên Chúa đang thực hiện trong và chung quanh chúng ta. Là kẻ đui
mù trên đường, chúng ta phải ý thức đến thân phận bùn đất của mình, nó ngăn cản
chúng ta nhận biết Thiên Chúa từ ái và nếm cảm sự hiện diện của Người trong đời
sống chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện để chữa lành và giải thoát chúng
ta khỏi mọi tội lỗi, sự yếu đuối và dối trá của chúng ta.
Toàn bộ tin mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa
yêu thương chúng ta vô cùng. Người không lên án cũng không vùi dập chúng ta,
nhưng luôn tìm cách nâng chúng ta lên, cho chúng ta sống và ban lại niềm tin cậy.
Vậy thì chúng ta là ai mà lại tố cáo tội lỗi và lên án người khác? Cách mà
chúng ta nói về những người tội lỗi không giúp họ đứng dậy. Đó cũng có thể coi
như là một hình thức đui mù ẩn tàng đàng sau cái mã tốt lành bên ngoài của
chúng ta.
Thời gian mùa Chay nầy là một cơ hội tốt để tất cả
chúng ta tự nhận mình là những kẻ đui mù. Hạnh phúc cho chúng ta, Chúa không
đòi chúng ta phải công khai một danh sách những sự mù quáng của mình. Ngài cũng
không đòi chúng ta phải tố cáo tội lỗi kẻ khác. Khi chúng ta đã lãnh nhận bí
tích giao hòa, chúng ta chỉ cần nhìn nhận rằng mình đui mù để quay về với Đức
Ki tô, đấng duy nhất có thể cứu chữa chúng ta. Chúa Giê su nói: “Ta đến để đặt lại vấn đề: đối với những ai
không thấy có thể thấy và những ai thấy lại trở nên mù lòa”.
Điều đó có nghĩa là những ai vẫn cố chấp với những
xác tín lỗi thời của mình thì vẫn là những kẻ đui mù. Bao lâu họ sống trong đường
lối đó, thì không một phép chữa bệnh nào có thể giúp ích họ. Chúng ta hãy nhớ lời
của thánh Gioan: “Ngôi Lời là Sự Sáng đã
đến trong thể gian, soi sáng cho mọi người. Và thế gian đã không nhận ra Người”.
Bùn xức trong mắt nhắc chúng ta một cử chỉ khác:
trong ngày rửa tội, vị linh mục đã xức dầu thánh cho chúng ta. Thời xưa người
ta xức dầu để tấn phong nhà Vua, như trong trường hợp vua Đa vít. Dầu ấy là dấu
cho thấy vua đã được Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống và hướng dẫn trong việc hoàn
thành sứ mạng của mình. Từ nay, ông thông phần vào sự thánh thiện của Thiên
Chúa. Ông sẽ không cai trị dân tộc mình theo tinh thần thế tục, nhưng theo đường
lối của Thiên Chúa.
Chúng ta là những người ki tô hữu đã được rửa tội
và thêm sức, chúng ta cũng nhận lấy dầu thánh ấy, biến chúng ta thành những ‘Tư
tế, Tiên tri và Vua’. Chúng ta đã trở thành chứng nhân cho Nước Chúa ngự đến.
Nhờ Đức Ki tô, chính ánh sáng Thiên Chúa chiếu vào trong tâm hồn giúp chúng ta
mở ra với tất cả những người chung quanh, đang sống trong những tình huống thất
bại, đau khổ và nghèo đói. Nếu Chúa muốn chữa lành đôi mắt mù lòa, thì cũng là
để chúng ta biết nhìn họ. Ngài muốn chúng ta ý thức hệ thống xã hội hiện thời
nhận chìm người nghèo trong cái nghèo của họ và phải tìm cách giải quyết để đưa
họ ra. Chính vì thế mà Ngài đòi chúng ta phải là những ki tô hữu sáng mắt, ý thức
rõ ràng trách nhiệm của mình.
Chính vì thế mà Lời Thiên Chúa muốn thay đổi cái
nhìn của chúng ta về Thiên Chúa, về người khác và về chính mình. Lời ấy mời gọi
chúng ta hãy tìm lại cái nhìn giải thoát của Đấng Cứu độ. Các dấu chỉ mà Thiên
Chúa ban cho chúng ta nhắc chúng ta về tình yêu đầy quyền năng của Ngài. Chúng
mời gọi chúng ta đáp trả bằng cách thưa: “Tôi tin” và dấn thân nhiều hơn trong
việc đi theo Đức Ki tô.
Chúng ta họp mặt trong nhà thờ ngày chủ nhật hôm
nay, chính là để mở lòng ra cho ánh sáng ấy chiếu soi, qua việc chúng ta lãnh
nhận Lời Thiên Chúa và Mình Thánh Đức Ki tô. Ước gì cái nhìn của chúng ta được
soi sáng để đến phiên mình, chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho mọi người.
ĐÀO SÂU
ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
1s 16,1.6-7.10-13a Thiên Chúa đã chọn Đa-vít làm Vua
dân Ngài
Tv 23,1 Chúa là mục tử chăn dắt con,
con chẳng thiếu thốn gì.
Ep 5,8-14 Sống trong ánh sáng
Ga 9,1-41 Phép lạ chữa người mù thừ thuở
mới sinh
1. HỎI: Các bài đọc được
liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: ÁNH SÁNG TRẦN GIAN. Khi chọn
Đa-vít, Thiên Chúa có cái nhìn thấu suốt tâm hồn con người (Bđ1). Đức Giê-su đã
đem lại ánh sáng đức tin cho người mù từ thuở mới sinh (BTM). Thánh Phao-lô mời
gọi các tín hữu hãy để cho Đức Ki-tô soi sáng (Bđ2).
2. HỎI: Sách Sa-mu-ên là
sách gì?
THƯA: Sách Sa-mu-ên thuộc loại
sách sử, ghi chép các biến cố xảy ra trong dân Ít-ra-ên khoảng từ năm 1070 đến
năm 970, từ thời thủ lãnh Sa-mu-ên đến sau Vua Đa-vít.
3. HỎI: Bài đọc một (1s 16,1.6-7.10-13a) có nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc một nói đến việc
Thiên Chúa sai tiên tri Na-than đến xức dầu tuyển chọn người con út của nhà
Giê-sê là Đa-vít lên làm Vua Ít-ra-ên.
4. HỎI: Qua câu truyện
trên, tác giả muốn nhấn mạnh điều gì?
THƯA: Tác giả nhấn mạnh đến cách
lựa chọn lạ lùng của Thiên Chúa: Người chọn người yếu nhất chứ không phải người
mạnh nhất. Đó là mầu nhiệm mà sau nầy Thánh Phao-lô nói đến: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên
Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27) vì “sức mạnh của Người được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối”. (x. 2Cr 12, 9).
5. HỎI: Bài đọc một dạy ta
như thế nào về quan niệm vương quyền trong Ít-ra-ên?
THƯA: Bài đọc một dạy ta ba điều:
một là nhà Vua là người được Thiên Chúa tuyển chọn, và sự chọn lựa ấy nhằm cho
một sứ mạng. Hai là nhà Vua được xức dầu, bản văn coi trọng việc nầy. Ba là việc
xức dầu ấy trao ban thần khí của Thiên Chúa cho nhà Vua. Nhờ thế, từ nay nhà
Vua được Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh, trở thành người thánh, đại
diện cho Thiên Chúa ở trần gian.
6. HỎI: Có những trường hợp
nào cho thấy Thiên Chúa thường chọn lựa như thế không?
THƯA: Có. Ngoài Đa-vít là đứa
con út được chọn, Kinh Thánh còn kể lại nhiều trường hợp khác về sự lựa chọn lạ
lùng của Thiên Chúa. Như Người đã chọn Mô-sê, dù ông ăn nói không được trôi chảy,
và đã nài xin Chúa đừng chọn ông (Xh 3,10). Như tiên tri Sa-mu-ên hãy còn là trẻ
nít, không có chút kinh nghiệm gì khi được Thiên Chúa gọi. Hay Giê-rê-mi-a cảm
thấy mình không xứng đáng nên đã từ chối đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa (Gr
1,6). Hay như Ti-mô-thê, một người ốm yếu nhưng đã được chọn làm người cộng tác
với Thánh Phao-lô.
7. HỎI: Thiên Chúa hành động
như thế với mục đích gì?
THƯA: Thiên Chúa muốn dạy cho
người được chọn đừng tự phụ cũng như đừng ngã lòng thất vọng. Điều quan trọng
không phải là tài năng hay công trạng mình làm được, mà là tâm hồn sẵn sàng cộng
tác với Thiên Chúa.
8. HỎI: Bài đọc một được nối
tiếp với bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài đọc một cho thấy cái
nhìn của Thiên Chúa khác hẳn với cái nhìn của con người và mời gọi hãy thay đổi
cái nhìn như người mù đã được Đức Giê-su mang lại ánh sáng đức tin trong bài
tin mừng thánh Gio-an (x.Ga 5).
9. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng
(Ga 9,1-41) như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng trích từ
chương 9 tin mừng thánh Gio-an. Chương nầy nằm trong phần gồm các chương 5-10
trình bày các việc làm, các dấu lạ mạc khải căn tính của Đức Giê-su. Sau khi
cho thấy dấu lạ chữa người bại liệt (ch. 5), dấu lạ hóa bánh ra nhiều (ch. 6),
mạc khải nước hằng sống (ch.7-8), thánh Gio-an trình bày phép lạ chữa người mù
để kết luận rằng Đức Giê-su chính là ánh sáng soi trần gian (ch.9). Câu chuyện
nầy xảy ra sau ngày lễ Lều, một đại lễ của người Do thái để tưởng nhớ thời gian
sống trong lều trại sa mạc trên đường về đất hứa. Có 4 ý chính: 1. Đức Giêsu và
các môn đệ đối diện với anh mù (9,1-5); 2. Đức Giêsu chữa lành anh mù (9,6-7);
3. Cuộc xử án anh mù (9,8-33): 4. Tuyên án (9,34b-41): Người Pha-ri-sêu lên án
anh mù. Đức Giê-su tiếp nhận anh mù và lên án người Pha-ri-sêu.
10. HỎI: Nội dung bài tin
mừng như thế nào?
THƯA: Có thể coi đoạn tin mừng
là minh họa cho điều mà thánh Gio-an nói ngay từ lời tựa: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết
Người” (1,9-10). Tuy nhiên, “những ai
đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa.”(1,12).
11. HỎI: Những kẻ không nhận
biết Ngài là ai?
THƯA: Trong phép lạ chữa lành
người mù, đó là những người Do thái quyết liệt chống đối Đức Giê-su và khăng
khăng từ chối tin nhận Ngài là Đấng Cứu độ Thiên Chúa sai đến.
12. HỎI: Tại sao thánh
Gio-an nhấn mạnh chi tiết: người mù ‘từ lúc mới sinh’?
THƯA: Thánh Gio-an lưu ý đến chi tiết ‘từ lúc mới sinh’ nhằm cho thấy phép
lạ Đức Giê-su sắp thực hiện kì diệu như thế nào và đưa ra những yếu tố khởi xướng
cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu.
13. HỎI: Tại sao lại có
câu hỏi: “Ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ
nó”?
THƯA: Bởi vì người Do thái thời
đó thường tin rằng: tội lỗi của cha mẹ để lại hậu quả xấu nơi con cái. Ngòai
ra, các thầy Ráp-bi còn dạy rằng người ta không thể chết hay mắc bệnh mà không
do tội lỗi của mình. Thậm chí có nhiều thầy còn dạy rằng ngay cả các em bé
trong bụng mẹ cũng đã phạm tội rồi (x. Is 20,5; Tb 3,3).
14. HỎI: Đức Giê-su đã trả
lời như thế nào?
THƯA: Đức Giê-su bác bỏ kiểu
quan niệm theo đó sự đui mù của anh nầy là do tội lỗi anh hoặc của ông bà hay
cha mẹ anh. Tuy nhiên, Đức Giê-su không phủ nhận một tương quan nào đó giữa tội
lỗi và nỗi bất hạnh hay bệnh tật của con người. Thật vậy, trong tin mừng Gio-an
5,14, Ngài nói với người bại liệt, sau khi đã chữa khỏi anh ta: “Nầy, anh đã được khỏi tội rồi, đứng phạm tội
nữa, kẻo nên tệ hại hơn”.
15. HỎI: “Việc làm của Thiên Chúa” (c.3) được tỏ
hiện có nghĩa gì?
THƯA: Đó là các phép lạ mà
Thiên Chúa sẽ thực hiện và muốn tiếp tục thực hiện qua Đức Giê-su. Phép lạ ban lại ánh sáng cho người mù từ lúc
mới sinh có mục đích cho thấy Đức Giê-su là “Ánh sáng soi cho trần gian” là Đấng
làm cho con người có thể nhìn thấy bên kia bóng đêm, bên kia diện mạo bên ngoài
và cái hữu hạn.
16. HỎI: Vậy thì khi đêm đến,
không ai có thể làm việc được nữa sao?
THƯA: Đức Giê-su so sánh Sứ mạng
của Ngài với ngày làm việc; ban đêm tương ứng với thời gian Ngài an nghỉ (chết)
(x. Ga 5,17; Lc 13,32).
17. HỎI: Theo Gio-an có mấy
loại mù?
THƯA: Có hai loại mù: mù tự
nhiên, đó là số phận của người mù từ thuở mới sinh, và trầm trọng hơn là mù tâm
hồn, đó là thái độ ngoan cố cứng lòng tin của người Do thái.
18. HỎI: Đức Giê-su đã chữa
lành như thế nào?
THƯA: Trong lần gặp gỡ đầu tiên,
Đức Giê-su đã lấy nước miếng hòa với đất thành bùn xức vào mắt người mù để chữa
lành anh. Trong lần gặp gỡ thứ hai, Ngài đã mở tâm hồn của anh mù ra đón nhận
ánh sáng mới, ánh sáng đích thực nhờ đó mà anh tin nhận Ngài là Đấng Cứu độ.
19. HỎI: Tại sao thánh
Gio-an chú trọng đến ý nghĩa từ “Si-lo-ê”?
THƯA: “Si-lo-ê” có nghĩa là được sai đến. Qua đó, thánh Gio-an muốn nhấn mạnh
rằng Đức Giê-su đích thực là Đấng Thiên Chúa Cha sai đến để soi sáng trần gian
bằng sự hiện diện của Ngài.
20. HỎI: Tại sao người Do
thái lại không tin nhận Đức Giê-su?
THƯA: Vì họ cứ khăng khăng kết tội
Ngài làm phép lạ trong ngày Sa bát. Như thế, họ khép kin tâm hồn trong những
xác tín sai lầm của mình nên không thể mở mắt để nhìn thấy ánh sáng nơi Đức
Giê-su.
21. HỎI: Việc chữa lành
người mù đưa đến kết quả nào?
THƯA: Việc chữa lành người mù khởi
động cuộc điều tra về căn cước của người chữa lành.
22. HỎI: Bước thứ nhất
trong cuộc điều tra là gì?
THƯA: Bước thứ nhất trong cuộc
điều tra là xác định xem người được chữa lành có phải là anh mù từ lúc mới sinh
không. Có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng người được chữa lành xác định chính là
anh.
23. HỎI: Bước thứ hai của
cuộc điều tra là gì?
THƯA: Bước thứ hai là điều tra
xem việc chữa lành đã xảy ra như thế nào?
Người Do thái thì quả quyết Đức
Giê-su không thể là người đến từ Thiên Chúa, vì Ngài thực hiện phép lạ trong
ngày Sa bát cấm làm việc. Có nhiều ý kiến về căn cước của Đức Giê-su, còn người
chữa lành tin rằng đó là một vị tiên tri.
24. HỎI: Bước thứ ba của
cuộc điều tra là gì?
THƯA: Bước thứ ba là điều tra
cha mẹ người mù để xác định người mù có phải là con của họ không. Cha mẹ người
mù không muốn phát biểu gì về người chữa lành con mình. Người Do thái thì quả
quyết đó là một người tội lỗi. Còn người mù thì cãi lại: nếu không từ Thiên
Chúa mà đến thì Đức Giê-su không thể làm được gì. Vì thế anh ta bị trục xuất.
Còn Đức Giê-su thì bị lên án là phạm thượng và bị hăm dọa giết chết. Bóng thập
giá đã xuất hiện.
25. HỎI: Cuối cùng Đức
Giê-su mạc khải điều gì?
THƯA: Ngài cho biết rằng, người
mù đích thực là người khăng khăng trong xác tín của mình và từ chối tin nhận
Ngài là Đấng Cứu thế. Còn những ai tin nhận Ngài, Ngài sẽ ban cho sự sống đời đời
vì Cha với Ngài là một.
26. HỎI: Bài đọc 2 (Ep
5,8-14) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô khuyên nhủ
các tín hữu một khi đã từ bóng tối tội lỗi thì hãy sống như con cái sự sáng, tức
là sống lương thiện, công bình và chân thật khi tìm cách làm những gì Chúa muốn.
27. HỎI: Sống sứ điệp Lời
Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Được nhìn thấy là một
quà tặng tuyệt vời Thiên Chúa ban, nhưng đối với đời sống cá nhân, ‘nhìn thấy thiêng liêng’ lại là một ơn
quan trọng hơn mà chúng ta phải khẩn xin Ngài. 2. Thái độ của tôi trước những
người đang đau khổ như thế nào. Một Kitô hữu chân chính không được nghĩ rằng Thiên
Chúa trừng phạt họ. Sớm hay muộn, Thiên Chúa sẽ làm rạng tỏ nơi họ quyền năng
và lòng thương xót của Ngài (x. Rm 8,28).
GLCG Đức tin là một ân sủng. 153 552 1814 1996
2606 Khi Thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống, Đức Giê-su tuyên bố với thánh nhân rằng : "Phàm nhân không tài nào mặc
khải cho anh điều ấy được, nhưng chính là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đã mặc
khải"(Mt 16,17) ( x. Gl 1,15; Mt 11,25). Đức tin là hồng ân của Thiên
Chúa, là nhân đức siêu nhiên do Người phú bẩm. Để có được đức tin nầy, cần có
ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và có sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh
Thần, Đấng thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt tinh thần
và ban cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân
lý" (DV 5).