CHÚA
NHẬT LỄ THĂNG THIÊN
Chúa cả trời đất
Cuộc Thăng thiên
của Chúa Giêsu mà Phụng vụ mừng kính hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu biến mất
khỏi thế giới lòai người. Nhưng sau khi Thánh Thần đến sự biến mất nầy trở
thành sự hiện diện không gì có thể xóa tan được. Ngài đã biến mất khỏi mắt các
môn đệ, nhưng Ngài vẫn hiện diện thực sự hơn bao giờ hết. Từ nay, họ sẵn sàng đi đến tận cùng thế giới để loan
báo Tin mừng.
Sách Công vụ 1, 1-11
Mở đầu sách Công
vụ. Tác giả Luca nhắc cho chúng ta nhớ rằng sự ra đi của Chúa Giêsu vì Vinh
quang của Cha mở đầu thời gian Sứ Vụ của Giáo Hội. Từ nay, chính Giáo Hội sẽ tiếp
nối công việc của Chúa Giêsu. Và Giáo Hội,
chính là anh, là tôi, là tất cả chúng ta.
Thánh Vịnh 46
Chúa chúng ta, đấng Cứu độ mặc lấy Vinh Quang. Cùng với tất cả các dân
tộc, chúng ta hãy reo hò mừng Ngài bằng một tiếng rao vui hòan vũ! Vì Cha đã
đặt Ngài làm Chúa và là Vua chúng ta.
Thư gửi Êphêsô 1, 17-23
Trong thư này, thánh Phao lô suy
niệm về bí mật cuối cùng của vũ trụ mà ngài gọi là “Mầu nhiệm”. Ngài nhận ra
rằng tòan thể tạo thành được nâng lên hướng về Thiên Chúa bằng tình yêu hiện
diện trong Đức Kitô. Người Kitô hữu đã được tham gia vào tiến trình nầy. Xin Chúa ban cho tất
cả chúng ta sự Khôn Ngoan cần thiết để hiểu rằng Chúa Giêsu là Đấng Cửu độ của
tất cả mọi người.
Tin mừng:
Mt 28, 16-20
NGỮ CẢNH
Đây là đoạn văn cuối cùng trong Tin mừng Mt. Sau khi gặp các
phụ nữ ở Giêrusalem (28, 9-10), giờ đây Đức Kitô Phục sinh long trọng gặp gỡ
tất cả các môn đệ ở Galilê. Phần nầy tạo thành phản đề đối với đoạn đi trước
(11-15)
Có thể đọc đoạn văn theo bố cục như sau:
1. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nhóm Mười Một (16-17)
2. Tuyên bố của Chúa Giêsu (18-20)
- Mạc khải về quyền năng (18)
- Lệnh truyền giáo (19-20a)
- Sự hiện diện thường xuyên (20b)
TÌM HIỂU
Galilê: theo lời
dặn của thiên sứ và của Đức Kitô (28, 7.10) và được các phụ nữ truyền lại, các
môn đệ đã đi về vùng đất mở ra thế giới ngoại giáo. Ở đó họ sẽ được nhận từ nơi
Đức Kitô sứ mạng sai họ ra đi đến “với mọi dân tộc”.
Ngọn núi: các môn
đệ đã nghe lời các phụ nữ; các ông đã bỏ lại phía sau kinh thành Giê ru sa lem
thù địch để gặp gỡ Đức Kitô sẽ tỏ mình trên núi. Cũng như người Híp pri đã làm
khi bỏ lại Ai cập thời Xuất hành.
Trên ngọn núi nào? Mt không gọi tên để nhấn mạnh đến tính cách
biểu tượng: đây là cuộc gặp gỡ thứ năm của Chúa Giêsu trên núi: với Sa tan (4, 8)
và rồi với các môn đệ vào những lúc quyết định cho đức tin của họ (5, 1; 15,
29;17, 1). Chúng ta đã ghi nhận nhiều điểm tương đồng giữa Chúa Giêsu và ông Mô
sê (các chương 5-7) trong đó “núi” là một. Tuy nhiên ở đây người ta nghĩ đến
núi Nê bô hơn là núi Si nai, vì Nê bô là điểm cuối cuộc hành trình dài của Mô
sê và là vọng lâu của đất hứa. Chúa Giêsu đã đi vào vinh quang ngang qua sự
chết, như dân của Ngài đã vượt qua sông Gióc đa nô. Ngài đã lãnh lấy mọi quyền
hành không những trên Israel mà còn trên toàn thế giới. Giờ đây Ngài nối kết
các môn đệ của Ngài vào trong quyền năng của mình.
Các ông bái lạy: x.
câu 28, 9. Bái lạy là cử chỉ phụng vụ diễn tả niềm tin vào Chúa Kitô là Thiên
Chúa. Chúa Giêsu đã đến nơi hẹn trước. Con đường của các ông dừng lại dưới chân
Ngài, trong tư thế thờ lạy Ngài.
Hoài nghi: trong
toàn bộ Tân Ước, từ nầy chỉ được dùng có hai lần (ở đây và trong câu 14, 31).
Chúa Giêsu thường phàn nàn về đức tin yếu ớt nơi các môn đệ của Ngài (x. 6, 20).
Ở đây ít nhiều họ được châm chước bởi vì họ vẫn chưa hết bàng hoàng bởi cái
chết của Chúa Giêsu. Tâm trạng đó dễ dẫn đến nghi ngờ: có đúng là Ngài không?
Hơn nữa trong tất cả các lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi chết, việc nhận ra Đấng
Phục sinh không bao giờ là một chuyện dễ dàng. Nhóm Mười Một là và vẫn là những
con người như chúng ta; tuy nhiên họ nhận lãnh một sứ mạng với những con người
như thế.
Chúa Giêsu đến gần:
các phụ nữ đã đến gần Chúa Giêsu và đã sờ Ngài (28, 9). Đức Kitô vinh quang
trên núi thoát khỏi mọi ảnh hưởng của con người. Nhưng Ngài đến gần con người,
như Ngài đã làm ngay từ lúc Nhập thể và tiếp tục làm như thế. Ngài vẫn muốn
luôn luôn ở với họ.
Nói với các ông: có
hai khẳng định: “Thầy được trao toàn
quyền trên trời dưới đất”; “Thầy ở cùng anh em” khép lại lệnh truyền giảng
dạy (có thể dịch là: hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy).
Dịch sát chữ: “Vậy hãy đi… giáo huấn… làm phép rửa… giảng dạy họ”.
Toàn quyền: trước kia
trên núi, Sa tan đã cám dỗ bằng cách đề nghị ban cho Chúa Giêsu toàn quyền, một
điều vốn chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi (4, 8-10). Ở đây chúng ta đứng trước
một chân lí hoàn toàn đi ngược sự dối trá của Satan. Chúa Giêsu đã không chinh
phục quyền hành nầy bằng sức riêng mình, nhưng đã được Cha ban cho. Động từ Hy lạp
ở đây cho thấy đây không chỉ các quyền hành mà Chúa Giêsu đã có từ muôn thuở mà
Ngài đã thủ đắc và đã sử dụng (9, 6; 21, 23-37), nhưng còn chỉ quyền tối thượng
mà Ngài lãnh nhận trong sự Phục sinh. Tuy nhiên Ngài không còn nói như một vị
Thầy nữa, mà với uy quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Trên trời dưới đất:
hai từ nầy nối kết lại chỉ toàn thể các sinh linh tạo thành (Stk 1, 1). Do đó
quyền thống trị của Đức Kitô có tính phổ quát.
Anh em hãy đi:
lời sai đi truyền giáo tiếp sau sự tôn vinh Đức Kitô là nền tảng, củng cố và
đảm bảo cho việc truyền giáo của Giáo Hội. Trong CƯ các trình thuật ơn gọi có
tính cách cá nhân với lời sai đi trong một sứ mạng cá nhân. Ở đây, lời sai đi
dành cho một tập thể. Bao gồm nhóm Mười Một mà Chúa Giêsu đã biến thành thân
thể của Ngài sau khi đã nuôi dưỡng bằng Lời và Mình Ngài (26, 26). Do vậy, Chúa
Giêsu đã không kết thúc nhiệm vụ của mình, nhưng từ nay trở đi, Ngài sẽ tiếp
tục hành động ngang qua các môn đệ của Ngài vì Ngài ở với họ.
Làm cho muôn dân trở thành môn đệ: hãy làm cho mọi người trở thành môn đệ Đức Kitô. Không
phải những người môn đệ chỉ đi theo Đức Kitô cho đến lễ Lá rồi trốn chạy hết,
mà như những môn đệ đã đi vào trong tương quan mới sau Phục sinh.
Muôn dân: trải
nghiệm truyền giáo đầu tiên đã được dành riêng cho các con chiên lạc nhà Israel
(10, 5-6), theo hình ảnh cuộc truyền giáo của Chúa Giêsu trần thế. Cuộc sai đi
nầy hướng đến tất cả mọi dân tộc (không loại trừ Israel), không phân biệt,
không độc quyền, theo hình ảnh của vương quốc phổ quát được giao phó cho Đức Kitô
phục sinh. Giáo Hội sẽ không ngừng sống theo lời truyền nầy.
Làm phép rửa cho họ:
phép rửa của Chúa Giêsu trong sông Gióc đa nô là cửa ngõ dẫn người Híp pri vào
đất hứa, là lời loan báo trước về sự dìm mình trong cái chết, được Ngài gọi là
phép rửa của Ngài (x. Mc 10, 38) và đã đưa Ngài đến vinh quang. Một khi đã sống
lại, Đức Kitô truyền lệnh cho các môn đệ làm phép rửa trong Thánh Thần (3, 11).
Nghi thức khai tâm và gia nhập cộng đoàn Kitô giáo nầy đưa những ai muốn làm
môn đệ của Đức Kitô vào trong sự chết-sống lại của Ngài.
Người làm phép rửa và người được rửa, cả hai đều được đưa
vào trong năng động của Thánh Thần và tạo thành phần tử của Giáo Hội.
Nhân danh Cha..:
công thức độc nhất trong Tân Ước để diễn tả đức tin trong mầu nhiệm Ba Ngôi.
Mt đã lấy lại từ thói quen sử dụng trong các cộng đoàn thời của ông. Có lẽ ở
thời đầu người ta rửa tội nhân danh Chúa Giêsu (Cv 2, 38). “Nhân danh” diễn tả
sự khởi đầu liên kết cá nhân và mới mẻ với một ai đó.
Ngang qua công thức nầy Đức Kitô phục sinh đặt Ba Ngôi Thiên
Chúa trên cùng một bình diện. Việc qui chiếu đến Ba Ngôi dần dần được qui định
vì trung thành với việc đọc lại để đào sâu Thánh Kinh: sự tỏ hiện của Thiên
Chúa trong phép rửa của Chúa Giêsu (3, 16-17), giáo huấn của Chúa Giêsu về Cha
(7, 21; 10, 32), về Con (11, 27; 17, 5; 21, 37) và về Thánh Thần (10, 20; 12, 28).
Và như thế công thức phép rửa nhắc lại việc tuyên xưng đức tin của người được
rửa tội trong Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu mạc khải.
Dạy bảo họ: việc giáo
huấn được liên kết với phép rửa. Ở đây chúng ta chờ đợi trình tự đảo ngược:
trước tiên phải có giáo huấn dẫn đến đức tin, rồi mới có phép rửa. Nhưng bổn
phận giáo huấn phải đi trước (dạy dỗ) và theo sau phép rửa. Đối với Mt được rửa
tội để được cứu độ là chưa đủ. Còn cần phải học lối sống theo Tin mừng và các
giới răn của Chúa Giêsu đã mang lại cho Mười điều răn những phần khai triển mới
(các chương 5-7). Không được bỏ điều gì cả, nhưng phải tiếp nhận tất cả.
Thầy ở cùng anh em:
khi truyền cho các môn đệ các lời nầy, Đức Kitô đã đưa lời hứa của Thiên Chúa
xuyên suốt Cựu Ước kể từ Xh 3, 12 đến chổ hoàn tất quyết định. Đấng Phục sinh
không ở bên ngoài hay bên cạnh, mà trong cuộc sống hiệp thông với thân thể sống
động của mình. Các ông không cô đơn, không bị bỏ mặc cho sức riêng mình: khi
trao ban cho họ các quyền cần thiết, Đức Kitô giao cho họ quyền năng của Ngài
(9, 8). Ngài sẽ rrở nên một với họ. Và đây là cách lặp lại danh Chúa Giêsu:
“Emmanuel” (1, 23).
“Anh em”: bao gồm toàn thể Giáo Hội, nhóm Mười Một,
và tất cả các cộng tác viên và các môn đệ, cùng với các đồ đệ của họ. Ngày nay,
mỗi người chúng ta phải nhận ra mình trong từ “anh em” nầy, phải tháp nhập bản
thân mình trong thân thể Giáo Hội của Đức Kitô, và trong Ba Ngôi qua trung gian
của Ngài. Được kết hợp như thế với Đức Kitô và qua Ngài, với Thiên Chúa Ba
Ngôi, cả chúng ta nữa cũng sẽ được sai đi “vào thế gian để chiêu tập môn đệ”.
Như thế, toàn thể Giáo Hội cuối cùng được thiết lập để phục
vụ Vương quốc. Trong lời hứa nầy, cũng như lời hứa với ông A bra ham và vua Đa
vít (1, 1-16), luôn có bảo đảm rằng Đức Kitô hiện diện với những người được kết
hợp trong danh của Ngài (18, 20), với những người mà Ngài gọi là anh em (28, 10).
Việc Chúa Giêsu luôn làm những gì Ngài đã hứa bảo đảm lời hứa được thực hiện.
SỨ ĐIỆP
Bốn mươi ngày sau Lễ Phục sinh,
chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Thăng thiên. Đó là ngày mà Ngài biến mất trước mắt
các tông đồ.
Như các ngài, chúng ta hướng về
trời, nhưng đồng thời, chúng ta không được phép quên trần gian: đó là sứ điệp
của thiên thần gửi đến cho các tông đồ; “Sao
các ông còn đứng nhìn lên trời?” Nói cách khác, chúng ta là những “công dân
nước trời”. Đôi chân đạp đất, nhưng ánh mắt và tâm hồn phải luôn hướng về trời
cao, nơi Thiên Chúa ngự trị, và là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Sức mạnh và
hi vọng nâng đỡ chúng ta chính là niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Nhưng đồng
thời, chúng ta không được phép lãng quên sứ mạng mà Đức Kitô giao phó: “Hãy đi khắp muôn dân, chiêu tập các môn đệ”.
Trong suốt năm
mươi ngày mùa Phục sinh, chúng ta đã truyền cho nhau niềm vui Đức Kitô sống
lại. Đó là một cơ hội tốt để hâm nóng lại và củng cố đức tin vào cuộc vượt qua
tuyệt vời của Chúa Giêsu. Điều đó cần thiết cho các môn đệ. Tin mừng nói cho
chúng ta biết trong giây phút cuối gặp gỡ và từ biệt Chúa Giêsu, một ít người
trong họ vẫn còn hoài nghi. Đức Kitô sống lại vẫn ân cần hiện đến với họ trong
bốn mươi ngày, chính là để giúp họ chiến thắng nghi ngờ và vững tin rằng Ngài
đã sống lại thật. Thật vậy, họ đã trải qua cơn ác mộng ngày thứ sáu tuần thánh.
Tận mắt họ đã chứng kiến Thầy mình bị bắt, bị tra tấn, bị hành hạ, bị giết
chết, bị treo trên thập giá và được mai táng trong mồ. Đối với họ, tất cả đều
đã sụp đổ tan tành. Nhưng rồi ba ngày sau, thật bất ngờ họ đã gặp Chúa Giêsu
sống lại. Lời đầu tiên của Ngài là sứ điệp bình an.
Đức Kitô đã
sống lại: đó là niềm tin và sứ điệp hi vọng mà chúng ta có bổn phận phải loan
truyền cho thế giới hôm nay. Một thế giới đang có nhiều người dửng dưng với tôn
giáo, thậm chí thù nghịch với đức tin Kitô. Và rất nhiều người đang phải vất vả
vì gánh nặng cuộc đời, chịu đau khổ vì bệnh tật, hoặc không còn hi vọng để
sống. Chúng ta phải tryền cho họ niềm hi vọng mà chúng ta đã nhận được từ sự
phục sinh của Đức Kitô. Rồi cần phải có thời gian tái nạp sức sống mới bằng
cách cầu nguyện, nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Đặc biệt phải
nhớ rằng Chúa Thánh Thần đến trước chúng ta trong tâm hồn của những người đang
trên đường chúng ta đi
Theo chân các tông đồ, chúng ta
được sai đi để rao truyền tin mừng cho mọi tạo vật. Ngày Chúa Giêsu Thăng Thiên
về với Thiên Chúa Cha là lúc Giáo Hội bắt đầu sứ mạng. Những gì mà Chúa Giêsu
đã làm, Giáo Hội phải tiếp tục. Ngài đã tha thứ, thì giờ đây
Giáo Hội sẽ tiếp tục tha thứ nhờ bí tích giao hòa. Chúa Giêsu đã trao ban Thánh
Thần, thì Giáo Hội sẽ tiếp tục trao ban Thánh thần qua bí tích Rửa tội, Thêm
sức và Truyền Chức. Nhưng Giáo hội không cô đơn vì được Chúa Giêsu trợ giúp
bằng sự hiện diện của Ngài. Công việc chính yếu, Ngài đang thực hiện trong tâm
hồn mỗi người.
Vì đã được thấm
nhuần tình yêu của Thiên Chúa, nên chúng ta phải để cho tình ỵêu ấy lan tỏa
chung quanh. Phải làm sao để người khác có thể khám phá trong chúng ta một nét
gì đó về tình yêu say mê của Thiên Chúa cho mọi người. Điều quan trọng là tâm
hồn chúng ta phải thấm nhuần lòng yêu mến bao la của Ngài đối với nhân lọai.
Vậy lễ nầy nhắc chúng ta nhớ đến
mục đích đời sống của chúng ta. Chúng ta có thói quen nói đến “chiếc cầu thăng
thiên”. Với Chúa Giêsu, Thăng thiên là một cây cầu cho phép chúng ta đi từ bờ
bên nầy sang bờ bên kia; chúng ta đang tiến về thế giới mới mà Ngài gọi là Nước
Trời; chính nơi đó Ngài muốn qui tụ tất cả mọi người. Đó chính là tin mừng mà
chúng ta phải loan báo cho mọi người thời đại chúng ta. Không gì có thể chận
đứng điều đó. Dù là bạo lực, chiến tranh, tai ương sẽ không phải là tiếng nói
cuối cùng. Đức Kitô sống lại muốn nối kết tất cả chúng ta vào trong chiến thắng
của Ngài trên sự chết và tội lỗi.
Còn một tuần lễ đến Lễ Hiện
xuống. các Tông đồ đã lợi dụng thời gian nầy để tĩnh tâm. Lạy Chúa, cùng với
các ngài, chúng con xin Chúa gửi Thánh Thần Chúa đổi mới mặt địa cầu.
ĐÀO SÂU
VỀ CÙNG
THIÊN CHÚA CHA
Cv 1, 1-11
Đức Giê-su trở về cùng Thiên Chúa Cha
Tv 47, 2
Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng
Ep 1, 17-23
Đức Ki-tô chủ tể muôn loài
Mt 28, 16-20
Hãy đi rao giảng khắp muôn dân
1. HỎI: Các
bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: ĐỨC GIÊ-SU VỀ CÙNG THIÊN CHÚA CHA. Tác giả sách Công vụ kể
lại biến cố Đức Giê-su trở về với Chúa Cha (Bđ1). Thánh Phao-lô cầu xin cho các
tín hữu được hiểu biết về niềm hi vọng mà họ được mời gọi tới (Bđ2). Đức Giê-su
truyền lệnh cho các môn đệ đi rao giảng khắp thế gian (BTM).
2. HỎI: Sách Công vụ là sách gì.
THƯA: Sách Công vụ là tác phẩm thứ hai của Thánh Lu-ca, tiếp nối
quyển tìn mừng thứ ba kết thúc với biến cố Đức Giê-su lên trời. Sách Công vụ
cho thấy sự bành trướng mau lẹ của Hội thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần theo lệnh truyền của Đức Giê-su trước khi về trời: “Anh em sẽ nhận lấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên anh em, anh em sẽ là
chứng nhân cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem và trên toàn cõi Giu-đê và Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).
3. HỎI: Bài
đọc một (Cv 1, 1-11) kể
lại biến cố gì?
THƯA: Bài đọc một kể lại biến cố Đức Giê-su về cùng với Thiên Chúa
Cha sau khi ban những lời cuối cùng cho các môn đệ.
4. HỎI: Con số 40 (Cv 1, 3) có ý nghĩa như thế nào?
THƯA: Trong
truyền thống Kinh Thánh con số 40 có ý nghĩa biểu tượng, chỉ một sự chuyển
tiếp, một sự thay đổi. Như Đại lụt diễn ra trong 40 ngày và 40 đêm; ông Mô-sê ở
trên núi 40 ngày; người Do thái lang thang trong sa mạc 40 năm; Đức Giê-su bị
cám dỗ trong 40 ngày.
5. HỎI: Tại sao sách Công vụ (bài đọc 1, của Lu-ca) cho biết
khoảng 40 ngày sau khi sống lại Đức Giê-su đã lên trời trước mắt các Tông đồ.
Nhưng trong tin mừng thứ ba (cũng của Lu-ca) thì lại kể việc Chúa lên trời liền
với việc Chúa sống lại.
THƯA: Đó là hai
cách nói về một mầu nhiệm duy nhất. Câu
truyện được kể trong sách Công vụ là việc Đức Giê-su phục sinh hiện ra lần cuối
cùng cho các môn đệ trước khi không còn xuất hiện công khai trên thế gian nầy
nữa cho đến khi Ngài trở lại. Còn việc Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Thiên
Chúa nằm trong mầu nhiệm Phục sinh. Đức Giê-su khi sống lại đã ở ngay trong
vinh quang Thiên Chúa Cha, nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh: “đã ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng Ngài hiện ra với các môn
đệ để củng cố Đức tin của họ.
6. HỎI: “Ngự bên hữu
Thiên Chúa” có nghĩa gì?
THƯA: Đó là cách nói Kinh Thánh có nghĩa là “ngang hàng với Thiên Chúa”, chỉ Đức Giê-su đã được trao quyền bá
chủ trên trời dưới đất, dẫn dắt toàn thể tạo vật đến chốn vinh quang, và đồng
thời trở thành đấng cầu bầu cho nhân loại.
7. HỎI: Tại
sao Đức Giê-su truyền cho các môn đệ không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem (Cv 1, 4)
trong khi các bản văn Tin Mừng khác lại kể các lần hiện ra của Đức Giê-su phục
sinh ở những nơi khác?
THƯA: Các bản văn Tin Mừng khác cho chúng ta
biết rằng Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê, nhưng ghi nhận của Thánh Lu-ca
không đi ngược với những gì được nói đến ở các đoạn khác trong Tân Ước bởi vì
tác giả không quan tâm theo thứ tự chính xác của thời gian và địa lý các sự
kiện về sự sống lại, nhưng chủ ý trình bày sứ điệp nền tảng của toàn bộ Tin
mừng của ngài: Giê-ru-sa-lem là trung tâm
tôn giáo của Do Thái giáo. Đức Giê-su hướng đến Thành Thánh này từ đầu cho
đến khi kết thúc sứ mệnh của mình. Kế đến, chính từ thành Giê-ru-sa-lem mà sứ
mạng phải được tiếp tục qua các tông đồ.
8. HỎI: Tại
sao Đức Giê-su truyền phải bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem?
THƯA: Bởi vì Giê-ru-sa-lem là trung tâm mà
từ đó tỏa ra sứ điệp mới về ơn cứu độ do các tông đồ rao giảng, như đã được báo
trước bởi các lời tiên tri xưa.
9. HỎI: Hai người mặc áo trắng có ý nghĩa gì?
THƯA: Thánh Lu-ca thích số hai. Như trong trình thuật ngôi mộ
trống, ông mô tả hai người mặc áo trắng trong ngôi mộ (Lc 24, 4), trong biến cố
biến hình có hai ông Mô-sê và Ê-li-a từ trời xuống (Lc 9, 30).
10. HỎI: Sứ điệp của các thiên sứ gửi cho các môn đệ là gì?
THƯA: Các thiên
sứ bảo các môn đệ đừng cứ đứng nhìn trời, nơi Đức Giê-su đã lìa xa các ông (Cv
1, 11). Để ở lại trong tình yêu của Ngài thì hãy thi hành lệnh truyền Ngài để
lại, là làm chứng nhân cho Ngài trên khắp cùng trái đất cho đến khi Ngài trở
lại.
11. HỎI:
Thánh Lu-ca muốn trình bày cho chúng ta điều gì khi nói rằng Đức Ki-tô đã được
đưa lên trời?
THƯA: Ngài muốn dạy rằng Chúa trở về với
vinh quang mà Ngài đã sở hữu từ thuở đời đời.
12. HỎI:
Nội dung bài đọc 2 (Ep 1, 17-23) như thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô khẳng định niềm tin vào Đức Ki-tô là bá chủ
mọi loài trên trời dưới đất.
13. HỎI: Ngữ
cảnh bài tin mừng (Mt 28, 16-20) như thế nào?
THƯA: Đoạn 28, 16-20 là kết thúc Tin Mừng Mt sau khi nói về sự
sống lại của Đức Giê-su. Thiên thần đã gặp các phụ nữ, loan báo sự sống lại của
Chúa Giêsu, bảo họ đi loan báo tin mừng cho các môn đệ của Người, và nói cho họ
biết cuộc hẹn tại Galilêa (28, 1-7). Trên đường về, Chúa Giêsu đã hiện ra cho
các phụ nữ (28, 8-10). Sau đó là câu chuyện các Thượng tế (11-15). Có 2 ý
chính: 1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với
Đức Giê-su (28, 16-17); 2) Các lời nói sau cùng của Đức Giê-su cho các môn đệ (28,
18-20).
14. HỎI:
Tại sao Đức Giê-su chọn Ga-li-lê làm nơi qui tụ các môn đệ?
THƯA: Lúc bấy giờ, Ga-li-lê được gọi là ngả tư gặp gỡ các dân tộc.
Nếu Đức Giê-su chọn nơi ấy để qui tụ các môn đệ trước khi về trời, chính là để
sai họ đến các dân ngoại.
15. HỎI:
Tại sao Đức Giê-su hẹn gặp các môn đệ trên một ngọn núi?
THƯA: “Núi” trong tin
mừng Mát-thêu có nghĩa biểu tượng (x. 5, 1;15, 29). Ở đây cũng thế, núi là một
địa điểm tiêu biểu cho mạc khải. Trong Kinh Thánh, núi thường là nơi tốt nhất
để gặp gỡ Thiên Chúa.
16. HỎI:
Các ông “bái lạy” Ngài có nghĩa gì
(c.17)?
THƯA: Các ông ‘Bái lạy Đức Giê-su’ vì đã nhận biết Ngài là Thiên
Chúa, đó là điều mà trước khi Đức Giê-su phục sinh, các ông không thể đạt tới.
17. HỎI:
Tại sao lúc ấy ‘còn có kẻ hoài nghi’ (c.17)?
T6HƯA: Nỗi hoài nghi ở đây không phải của một vài môn đệ trong biến
cố đã qua, nhưng là sự hoài nghi của cộng đoàn Mát-thêu đã bị lời của Đấng Phục
sinh làm tiêu tan.
18. HỎI: “Quyền” (c.18) của Đức Giê-su là quyền
gì?
THƯA: Đó là quyền Chủ tể (quyền Chúa) trên mọi tạo vật và làm Quan
Án cánh chung mà Thiên Chúa ban cho Ngài qua cuộc Phục sinh. Quyền ấy tối
thượng, sung mãn, phổ quát bào trùm toàn thể vũ trụ (x. Đn 7, 14).
19. HỎI:
Lời huấn thị của Đức Giê-su (cc.19-20a) gồm những điều gì?
THƯA: Gồm ba điều chính yếu: thâu nạp môn đề khắp muôn dân, làm
phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và giảng dạy họ tuân giữ những gì
Ngài đã truyền cho các môn đệ.
20. HỎI: Lời
hứa cuối cùng là lời hứa gì?
THƯA:
Cũng như Thiên
Chúa đảm bảo hiện diện với toàn dân của Người, Đức Giê-su cũng hứa sẽ ở cùng các
môn đệ mình như thế. Ngài là ‘Em-ma-nu-ên, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta’ (x.
1, 23) sẽ ở bên các môn đệ Ngài mọi nơi mọi lúc để giúp đỡ ủi an, khuyến khích,
mời gọi và không ngừng dõi theo hoạt động của họ.
21. HỎI: Mầu nhiệm lên trời có nghĩa gì?
THƯA:
Việc Đức Giê-su
lên trời và và việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không thể tách rời khỏi mầu
nhiệm Phục sinh, vì cả ba đều nhằm khai triển mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.
Lên trời có nghĩa là kết thúc các lần hiện ra của Đức Giê-su Phục sinh với các
Tông đồ, kết thúc sự hiện diện của Đấng Phục sinh dưới hình thức thấy được, sờ
được, nhưng không có nghĩa là Ngài vắng mặt.
Trái lại, mầu nhiệm lên trời mở ra sự hiện diện mới của Đức Kitô ngang
qua hoạt động Chúa Thánh Thần. Từ nay, Đức Giê-su hiện diện trong Giáo Hội cùng
với sứ mạng loan báo tin mừng.
22.
HỎI: Sống sứ điệp Tin Mừng như thế nào?
THƯA:
1. Mừng Lễ Chúa Lên Trời hôm nay, chúng
ta được mời gọi như các Tông Đồ ngày xưa, tiếp tục công việc của Chúa, nói về
Thiên Chúa, chia sẻ về Chúa cho anh chị em, không những bằng lời nói mà còn
bằng những việc làm. 2. Trân trọng tuân giữ lời rao giảng và duy trì kinh
nghiệm khi gặp Chúa, sống với Chúa qua đời sống cầu nguyện, việc cử hành Bí
Tích Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể là phương thế để Chúa hiện diện, để Chúa
thực hiện điều Ngài đã quả quyết: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận
thế”.
GLCG 663 648. Từ nay, Đức Ki-tô, ngự bên hữu Chúa Cha: "Ngự bên
hữu Chúa Cha nghĩa là hưỡng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa; Con Thiên
Chúa đã hiện hữu từ muôn thuở như Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha, nay
đang ngự trong vinh quang và danh dự này cùng với thân xác được tôn vinh (T.
Gio-an Đa-mát 0.4.2)".
665. Đức Ki-tô lên trời nghĩa là nhân tính của Người vĩnh viễn đi
vào thượng giới của Thiên Chúa. Từ nơi đó, Người sẽ trở lại (x.Cv 1, 11). Giữa
Thăng Thiên và Tái Lâm, loài người không trông thấy Người được (x.Cl 3, 3).
666. Đức Giê-su Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, đi trước chúng ta vào
Vương Quốc vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta là chi thể của Thân Thể Người,
sống trong niềm hy vọng một ngày kia được ở vĩnh viễn với Người.
667. Đức Giê-su Ki-tô đã vĩnh viển đi vào cung thánh trên trời.
Người không ngừng chuyển cầu cho chúng ta như là Đấng trung gian bảo đảm sẽ
luôn ban tràn đầy Thánh Thần cho chúng ta.
Lm. Paul Nguyễn Văn Đông.