DỤ NGÔN CỎ LÙNG HẠT CẢI, MEN BỘT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Về Nước Trời thì cũng y như người kia": Trong lúc dụ ngôn người gieo giống có thể tóm tắt bằng mấy chữ: việc nảy mầm của Nước Trời sẽ gặp nhiều thất bại đau đớn; thì dụ ngôn cỏ lùng lập tức đi tiếp theo và đặt ngay câu hỏi: các thất bại, các sự chống đối Nước Trời, cái công việc của Thần dữ đó phải chăng không thể bị dẹp bỏ ngay lập tức? Cả hai đều cố gắng đánh đổ lòng nao nức trông chờ Đấng Thiên sai ra tay, dụ ngôn người gieo giống thì bằng cách xác quyết rằng không thể tránh được việc một phần lớn hạt giống bị mất đi; còn dụ ngôn cỏ lùng thì bằng cách khẳng định: đừng hành động trước thời gian, đừng muốn dẹp bô công việc của Thần dữ trước mùa gặt. Xin nhớ là vào thời Chúa Giêsu, sự nóng lòng này đã khiến người ta tin rằng việc giải phóng dân thánh và việc tiêu diệt quân vô đạo sẽ xảy ra ngay lập tức (x. các Thánh vịnh của Salomon và các bản văn Qumrân). Do đó họ không thể nghĩ là có việc chống đối lại Đấng Cứu thế (dụ ngôn người gieo giống) và việc chung sống, lâu dài với sự dữ trong thời Đấng Messia (dụ ngôn cỏ lùng).
(Chú thích về các công thức nhập đề của các dụ ngôn):
Như các dụ ngôn đương thời, dụ ngôn của Chúa Giêsu xuất hiện dưới hai hình thức căn bản:
1/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng chủ cách (nominatif) (chủ từ): đó là các câu chuyện đơn giản không có động thức nhập đề, ví như dụ ngôn người gieo giống ("Này người gieo giống đi ra gieo lúa").
2/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng ở dữ cách (datif) (tức từ gián tiếp) tương đương với chữ "Le" trong tiếng Aram. Đa số dụ ngôn của các giáo sĩ bắt đầu với các chữ ấy: MashalLe (người ta hay gặp chẳng hạn: Mashal. Le mélék shé: “Một dụ ngôn. Giống như ông vua kia..."). Ngữ điệu đó là một cách nói rút gọn, hay một lối viết tắt của câu émshol Lekha, Úlashal. Le ma haddabhar dom? Le... = "Tôi muốn kể cho anh một dụ ngôn. Tôi sẽ so sánh sự vật với cái gì? Thì nó cũng giống như... ". Thỉnh thoảng người ta thay thế ngữ điệu dài dòng đó bằng một tiếng dữ cách duy nhất.
Trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu, ta gặp một công thức nhập đề dài ở dữ cách nơi các câu hỏi đi trước dụ ngôn của Mc 4, 30 tắt: "Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa hay lấy gì mà ví nó được? Thì cũng như..." hoặc của Lc 13, 20t: "Ta sẽ lấy gì mà so sánh Nước Thiên Chúa?".
Tương ứng với công thức vắn với dữ cách khởi đầu, là các chữ hôs, hôsper, "như" viết ra tiếng Hy lạp là homoiôthêsetai, homoiôthê, homoios estin, "giống như"; trong căn ngữ của 5 công thức này, cũng có cùng một giới từ Aram là "Lc". Như vừa nói, chữ "Le" này là một lối viết tắt, nên không chỉ được dịch là "giống như song là: "Về... thì cũng giống như...". Trong nhiều trường hợp, chính nội dung của dụ ngôn buộc ta phải để ý đến lối viết tắt của công thức nhập đề đó, vì công thức này thay đổi điểm ta muốn so sánh. Trong Mt 13, 45, Nước Thiên Chúa rõ ràng là không "giống như người thương gia", mà giống như "viên ngọc quý"; trong Mt 25, 1, nó không "giống như mười trinh nữ" mà giống như bữa tiệc cưới; trong 22, 2 nó không "giống như vua kia" mà giống như các cuộc vui ở tiệc cưới; trong 20,1 Nước Thiên Chúa không "giống như gia chủ" nhưng giống như việc trả lương; trong 13, 24, nó không "giống như ' người kia gieo giống tốt trong ruộng mình", mà giống như mùa gặt hái; trong 18, 23 nó không "giống như ông vua trần thế" mà giống như việc tính sổ. Trong mọi trường hợp trên, ta tìm ra điểm so sánh đích thực khi nhớ rằng: dưới thành ngữ Hy lạp homoios estin "giống như", tiềm ẩn một chữ "Le" Aram, mà ta phải dịch là: "Về.... thì cũng giống như..".
Nhận xét này cũng có giá trị đối với các trường hợp khác trong đó ta thường không thấy lối viết tắt của công thức nhập đề. Không thể dịch Mt 13,31 là "Nước Thiên Chúa giống như hạt cải..." mà phải dịch: "Về Nước Thiên Chúa thì cũng giống như hạt cải... ", vì chẳng phải với hạt cải mà Nước Thiên Chúa được so sánh, nhưng là với cây to lớn phát sinh từ hạt cải và làm chốn nương náu cho chim trời. Ở trong Mt 13, 33 cũng thế: Nước Trời không "giống như men" mà giống như bột dậy lên (coi Rm 11,16) và trong Mt 13,47 Nước Trời không được ví với chiếc lưới đánh cá, nhưng như việc lựa lọc cá bị mắc vào lưới.
"Hãy để chúng mọc lên cả hai cho đến mùa gặt": Trong suốt cả dụ ngôn, ông chủ luôn tỏ ra tự tín. Khi được hỏi về nguồn gốc cỏ lùng, ông không chút ngần ngại tuyên bố: cỏ lùng do kẻ thù gieo. Ông cũng tỏ ra tin tưởng vào giá trị hạt giống của ông, và biết chắc cỏ lùng sẽ không tài nào thắng thế. Kể cũng lạ khi ở đây hầu như không biết đến nguy cơ làm chết ngạt hạt giống tốt, cái nguy cơ đã được tỉ mỉ mô tả ở dụ ngôn người gieo giống trước (13,7).
"Một hạt cải": Tính cách nhỏ bé của hạt cải được đưa vào ngạn ngữ Palestine. Nhưng cây cải lại cao đến 2 hay 3 mét, đứng quanh vùng có thể thấy. Tuy nhiên dù cao lớn (arbuste), nó cũng không phải là cây (arbre) như dụ ngôn nói.
“Thành một cây”: Trong Cựu ước, cây có chỗ cho chim trời nương náu là một hình ảnh thường dùng để chỉ một vương quốc hùng mạnh bảo đảm được an ninh cho thần dân mình (Ed 17, 23; 31, 6; Đn 4, 9; 11, 18). Trong văn chương khải huyền, giáp sĩ hay targum, chim tượng trưng cho dân ngoại đến từng lũ, từng đoàn. Ở đây Mt nhấn mạnh đặc tính cánh chung của dụ ngôn (nhưng điều này không loại bỏ lối áp dụng có tính cách Giáo Hội học) khi phóng đại thân cây rau lớn (arbuste) thành một "cây to (arbre).
"Bà nọ lấy, vùi...": dịch sát chữ: che dấu", hạn từ này đưa về ý tưởng chủ yếu của cả phần này.
"Ba thúng bột": Đây là một khối lượng bột rất lớn, trên 39 lít, nghĩa là khoảng 60-70 ký lô. Con số ba thúng bột này. Khác hẳn lấy từ St 18. 6 (x.Tl 6, 19 và 1 Sm 1, 24) là quá phóng đại vì lượng bột đó làm đủ bánh nuôi trên 150 người ăn! Viễn ảnh dị thường của bữa ăn này xem ra muốn đưa ta nghĩ đến bữa tiệc cánh chung. Ở dây Matthêu nhấn mạnh tới hiệu lực của men, thứ có một sức mạnh lạ lùng như vậy. "Cho đến khi tất cả dậy men": hiệu lực của Nước Trời lan rộng đến toàn thể sức mạnh của nó thật vô song, dù bề ngoài xem ra yếu ớt.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói hết thảy các điều ấy với dân chúng, và Người không nói với họ điều gì mà lại chẳng dùng dụ ngôn": Trong văn mạch Mt, phải giới hạn nghĩa của chữ “hết thảy" vào lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Trời. Vì không phải bao giờ Người cũng nói bằng dụ ngôn; nhưng khi dạy về mầu nhiệm Nước Trời, thì Người luôn dùng thể văn ấy. Phần thứ hai của câu ngụ ý rằng Chúa Giêsu, để dạy về Nước Trời cho quần chúng, đã cẩn thận nói bằng dụ ngôn, hầu tránh mọi hậu quả tuyên truyền có tính cách thiên sai chủ nghĩa.
"Sấm ngôn của ngôn sứ": Matthêu bảo là một ‘ngôn sứ’ nhưng lại trích dẫn một tác giả Thánh vịnh, Asaph. Có thể ông nhớ Asaph ấy đã được gọi là "ngôn sứ" trong 2 Sk 29, 30; nhưng đúng hơn, có Iẽ ông quan niệm tất cả các sách Cựu ước đều có giá trị sứ ngôn... Thế mà sách thánh đã tiên báo Đấng Messia sẽ dùng dụ ngôn mà phán dạy.
“Con cái của Nước... con cái quỷ dữ ”: Cách phân chia nhân loại thành hai khi đối nghịch nhau đây rất thông dụng trong Do thái giáo đương thời. Ta thường gặp lối phân chia đó trong các văn tập của Qumrân. Chỉ khác một điều là: đối với Qumrân, nói kẻ lành đều ở trường phái của họ. Tất cả kẻ dữ là những người bên ngoài; còn ở đây cá hai đều sống lẫn lộn, và các môn đồ không có quyền tách rời họ ra.
“Cũng như người ta nhặt cỏ lùng...”: Trong dụ ngôn, trọng tâm nằm trên quyết định của ông chủ là để cỏ lùng mọc chung với giống tốt, trong lúc ở phần giải thích lại là đề tài mùa gặt tương lai, là số phận chung cục của cỏ lùng và lúa: trên 7 câu giải thích, đã có tới 4 câu nói về mùa gặt tương lai. Có lẽ Matthêu đã lan rộng một kết luận nguyên thủy vừa phải hơn của Chúa Giêsu, để đánh đổ một niềm vững tin tự đại có khuynh hướng lan tràn giữa Kitô hữu thời ông: việc gia nhập Giáo Hội chưa phải là được cứu độ cách dứt khoát; còn có cuộc phán xét sau cùng sẽ vô cùng khốc liệt đối với các Kitô hữu xấu xa.
KẾT LUẬN
Được bắt đầu với việc rao giảng Lời, Nước Trời thoạt tiên rất nhỏ bé khiêm hèn. Nó không áp đặt trên mọi tạo vật một cách hách dịch và ngay tức thời. Tình trạng hiện nay của nó còn hỗn tạp hồ đồ: kẻ lành người dữ đều triển nở trong nó. Và chỉ vào cuối cuộc hành trình dài đằng đẵng? được theo đuổi một cách âm thầm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nước Trời âm ỉ quy tụ toàn thể vũ trụ trong Hòa bình của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Người môn đồ Chúa Kitô sẽ chấp nhận hiện tại dễ dàng hơn nếu biết tin tưởng như đã nói vào tương lai. Họ biết rõ rằng các bước đầu thật khiêm tốn như thế (Giáo Hội luôn luôn là thiểu số trong trần gian) chỉ là các dấu chỉ bất tương xứng vai công trình một ngày kia sẽ hoàn tất. Họ hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa. Thiên Chúa há không thể biến sỏi đá thành con cái Abraham được sao, nghĩa là Ngài không thể từ hư vô mà gầy dựng nên một dân tộc, một dân cho riêng Ngài được sao (Mt 3, 9)? Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của người đời các vật tầm thường đối với Ngài lại là to tát, và cái lớn lao trước mặt người đời đôi khi lại làm Ngài ghê tởm.
2) Người hoàn toàn phó thác cho Nước Thiên Chúa, để Nước Chúa biến đổi, tái dựng mình, thì đúng là men đích thực của môi trường họ sống. Cái sinh lực liềm tàng trong họ cũng xâm nhập vào mọi thứ chung quanh và lan tràn đến hết mọi người. Tình yêu ở trong một con người luôn chiếu dọi cho những kẻ chung quanh.
3) Hạt giống tốt đã được gieo đầu tiên và ở khắp nơi, thì hạt lúa tốt sẽ được gặt hái sau cùng và khắp mọi chốn. Cỏ lùng không phải là nguyên thủy và cùng đích, chẳng phải là alpha và omêga:- Alpha và Omêga chính là hạt lúa tốt vậy.
4) Cái nhìn của Kitô hữu về thế giới, về tha nhân phải là một cái nhìn tích cực. Không phải vì ta có mắt tốt hơn những người khác để phân biệt cỏ lùng với lúa tốt hay bàn tay tài khéo hơn để tách rời thứ này khỏi thứ kia. Nhưng vì cái nhìn của ta là một cái nhìn đức tin: ta biết hạt giống hôm nay đang triển nở mà không gì ngăn được vì ta tin vào Chúa Giêsu Kitô; nhưng niềm xác tín này ta được không phải nhờ một phân tích “khoa học" về lịch sử đâu. Ta chẳng thấy hạt giống tốt ưu thắng và sẽ không bị chết ngạt, nhưng ta tin diều đó. Niềm tin làm ta hy vọng mãnh liệt vào con người, sự vật, biến cố.
5) "Óc kỳ thị" không chết trong ta đâu. Ta vẫn luôn bị cám dỗ lên án hay loại trừ những kẻ xem ra chẳng có cùng quan niệm như ta về chân thiện mỹ.
6) Ta thường đặt câu hỏi như các đầy tớ trong dụ ngôn: Từ đâu mà có biết bao sự dữ trong trần gian? Tại sao thế giới không nên tốt hơn sau 20 thế kỷ Kitô giáo? Vì sao Giáo Hội vẫn luôn có những khuyết điểm sờ sờ như vây? Chúa Giêsu trả lời bằng cách cho thấy tính cách hàm hồ không thể tránh được của toàn thể tạo vật đang trên đường tiến về Nước Trời. Một tính cách hàm hồ phổ quát, lan tới các tập thể cũng như cá nhân, Giáo Hội cũng như tín hữu. Điều đó có nghĩa là chân, thiện, mỹ không hiện hữu ở tình trạng hiển nhiên, y như điều sai quấy, xấu xa. Không một ai, không một tập thể nào hoàn toàn phù hợp với Nước Trời, nhưng cũng chẳng ai xa lạ, chẳng bị khai trừ khỏi Nước ấy.
7) Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn: Ngài chịu đựng nhiều thế kỷ tội lỗi vì viễn ảnh rộng lớn của Ngài là ban ơn cứu độ cho ta (Rm 3, 26). Ngài ghét tội lỗi, nhưng yêu kẻ biết thống hối ăn năn dù tội lỗi đến đâu (Rm 2, 4). Nếu Thiên Chúa không kiên nhẫn, bây giờ ta ở đâu rồi?
8) Đức kiên nhẫn ấy cũng cần cho con người. Do đấy có nhiều yêu sách xem ra mâu thuẫn nhưng phải biết dung hòa: không dung túng sự dữ, song vẫn kính trọng nhân vị và khả năng hoán cải của tội nhân, vẫn bảo vệ các tâm hồn ngay chính khỏi nhiễm lây gương xấu, tà đạo, thái độ dửng dưng tôn giáo. Do đó ngay từ nguyên thuỷ, ta thấy Giáo Hội khi thì nghiêm khắc (1Cr 5, 3- 5) lúc lại thông cảm (1 Cr 5, 9-10) tùy hoàn cảnh cụ thể của các tâm hồn. Hai thái độ ấy đều chính đáng và cần thiết, dù theo một lường độ khó mà xác định. Chúng cũng đề phòng ta khỏi bị ảo tưởng đạt được những trạng thái dứt khoát rõ ràng ở đời này. Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng trong đó chỉ có các thánh, chỉ gồm người công chính là một điều hão huyền. Nếu đường ranh giới phân chia sự dữ điều lành khá rõ ràng, thì lại rất lu mờ giữa kẻ lành người dữ (lấy quyền nào mà cho mình là "tốt"?). Vì kẻ sống trong tội lỗi hôm nay, mai ngày có thể trở nên một thánh Augustinô hay một Charles de Foucauld.