GIẢI
VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016
BẢN TIN 05
GIA HẠN NHẬN
BÀI ĐẾN 31-3-2016
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa
Giáo phận Qui Nhơn khởi xướng và đã tổ chức thực hiện đến năm thứ 4 (2016) dành
cho các cây bút văn xuôi chưa quá 40 tuổi. Chương trình này muốn gợi lên nơi các
bạn trẻ Công giáo ý định thử viết một truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ
đó dần dần sẽ khám phá ra mình có khả năng sáng tác và có thể trau dồi khả năng
này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 8 truyện dự thi
mới được chọn qua vòng sơ loại. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và
tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải
nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ
được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và
hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau
từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay
đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi
sau cùng của mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để
có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem thể lệ cuộc thi ở cuối bản tin này và
các thông tin khác về cuộc thi tại: http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Cuộc thi lần
thứ 4 (2016) đang vào “giai đoạn nước rút” với lượng bài dự thi gởi về ngày
càng nhiều. Theo thể lệ đã công bố thì đến ngày 1/3/2016 là hết hạn nhận bài
của lần này. Tuy nhiên qua trao đổi, nhận thấy vẫn còn nhiều tác giả muốn tham
gia dự thi nhưng không kịp hoàn thành bản thảo, để tạo điều kiện cho các tác
giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, Ban Tổ chức quyết định gia hạn
việc nhận bài của giải 2016 thêm một tháng. Hạn cuối nhận bài là đến hết ngày
31-3-2016. Rất mong sẽ có thêm nhiều truyện dự thi gởi đến cho Ban tổ chức để
cuộc thi thêm phong phú và hấp dẫn.
Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác
từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công
giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi
bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin
Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Ước mong quý vị và các bạn giúp giới thiệu chương
trình này thật rộng rãi.
Xin chân thành cám ơn.
Qui Nhơn, ngày 25-02-2016
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 16-046
CHỌN LỰA
Đêm đã
khuya. Chủng viện ngập chìm trong bóng đêm dày đặc, thanh vắng từ lâu. Đâu đó
nghe thoang thoảng tiếng ngáy của ai đó đã phiêu bồng trong giấc ngủ im lìm.
Anh vẫn không ngủ được. Anh đang cố nằm lây lất và mong màn đêm chóng qua. Anh
nhớ lại ngày anh bước vào chủng viện, mọi người hởn hở mừng rơn. Đi đâu ba mẹ
anh cũng tự hào vì anh đã được vào chủng viện. Anh đi tu là niềm vui lớn cho
gia đình. Bao nhiêu kỳ vọng đặt ở nơi anh. Giờ đây, anh lại cảm thấy hối hận vì
anh không thích hợp với đời tu nữa. Thời đó anh cũng thích đi tu thật! Nhưng
lúc này anh thiết nghỉ không phải cứ thích là đi tu được mà cần phải hợp nữa.
Và ngược lại nhiều khi có thể sống hợp đời tu nhưng không thích thì cũng khó mà
đi tu được. Nói chung, để sống đời tận hiến cách trọn vẹn phải đủ hai yếu tố cả
thích lẫn hợp. Anh cứ lăn qua trở lại trên giường, rồi trằn trọc suy nghĩ. Sự
giằng co đang xâm chiếm trong tâm trí anh. Anh nên về hay anh nên bước tiếp
trên đường tận hiến. Anh cần có một sự chọn lựa dứt khoát. Nếu cứ tu mà không
thích hợp thì đời anh còn đâu là hạnh phúc. Những ngày sau này chỉ là những ngày
anh sống lắt lay cho qua ngày đoạn tháng mà thôi. Nếu về thì anh sẽ sống với ba
mẹ và người đời được không? Áp lực từ phía gia đình quá lớn đối với anh. Ba mẹ
anh đều là những người có chức vụ ở trong giáo xứ. Cậu ruột anh là linh mục
đang du học ở bên trời Tây. Anh về anh sợ gia đình thất vọng và tiếng đời xỉa
xói chỉ trích. Lắm lúc, anh nhủ thầm: “Hay là mình cố mà tu. Không được! Cố tu
để rồi chừng sau mình sẽ thác loạn trong đời tận hiến. Đời tận hiến không thể
sống một cách xoàng xĩnh, hời hợt và nông cạn. Thà Giáo hội có ít linh mục mà
linh mục thánh, còn hơn có nhiều linh mục mà linh mục ‘tồi’ ”.
Thời
gian này, anh suy nghĩ nhiều về đời ơn gọi của anh. Anh suy nghĩ về đời sống
thiêng liêng của anh, về lời mời gọi “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác
thập giá mình mà theo Thầy? ” (Mt 16,24). Anh nhận thấy anh là người hướng
ngoại, khó cầu nguyện. Vì thế, nơi anh thiếu đời sống nhiệm hiệp. Cứ mỗi lần
cầu nguyện hay chầu Thánh Thể anh cảm thấy những giây phút ấy trôi qua thật
nặng nề. Chủ đề “chiêm niệm trong đời sống linh mục giáo phận” mà chủng viện đề
ra trong năm, mấy khi mà anh kết hiệp được bởi tâm hồn anh tiều tụy và ngày
càng héo úa. Dường như anh chẳng nói chuyện được với Chúa, từ năm tu đức cho
đến bây giờ trong anh chẳng mấy đổi thay. Dù anh yêu Chúa, anh mến Chúa nhưng
sâu thẳm của cõi lòng anh không thể tận hiệp với Đấng Tình Yêu Tuyệt Đối ấy.
Anh nghỉ rằng một khi đã yêu ai mà nói chuyện
không được, thì làm sao hiểu được người mình yêu và vun đắp cho tình yêu
ấy triển nở. Điều nguy hại hơn nữa, đó là anh không thể sống đời độc thân linh
mục mai này. Dường như đời tận hiến của anh cứ chập chờn trong khung cảnh ảm
đạm và u tối. Phải chăng qua những dấu
chỉ ấy, Chúa đã cho anh nhận ra anh không hợp với đời dâng hiến. Mấy tháng gần
đây, anh đã thưa chuyện với cha linh hướng về dấu hiệu mà anh gặp phải. Cha
linh hướng của anh không khuyên anh về mà cũng chẳng ngăn anh ở lại. Cha linh
hướng mở ra cho anh một con đường để anh phán đoán về ơn gọi riêng của mình và
tự ý chọn lựa. Cha khuyên anh nên thưa chuyện cho gia đình biết tình cảnh của
anh lúc này. Anh lưỡng lự. Anh chìm vào giấc ngủ lúc nào anh không hay.
o0o
Mặt
trời phía đông bắt đầu ló dạng. Những chú chim chào mào kéo nhau về đậu trên
mái nhà hót líu lo, đón chào một ngày mới. Mọi sinh hoạt của chủng viện diễn ra
như thường lệ. Sáng nay lớp anh không có
giờ lên lớp. Sau những lần thao thức suốt đêm hôm qua, anh quyết định thưa
chuyện cho gia đình biết ý định của mình.
- Reng reng! Reng reng! Reng reng!...
Ba anh
đang chăm chú giở từng trang lịch treo tường để xem những ngày lễ Công giáo
trong tháng. Tấm lịch của Đại Chủng viện biếu gia đình anh mỗi khi vào dịp tết
đến. Ba anh dừng lại trang lịch có in hình của anh, nhìn một hồi thật lâu. Ông
chậc lưỡi: “Mới ngày nào…mà giờ đây…Chà! Nhanh thật! ”. Ông nở một nụ cười tươi
trên môi. Nghe điện thoại reo lên, ông liền bắt máy:
- Alô!
- Ba! Con…con… đây, ba…ba… khỏe không ba?- Giọng
anh nhỏ nhẹ có chút ấp a ấp úng.
- Uhm! Ba khỏe.
- Mẹ đi đâu rồi hả ba?
- Mẹ đang nấu cơm dưới bếp.
- Ba ơi! Con có chuyện muốn nói với ba mẹ.
- Chuyện gì thế con?
- Dạ! Con…con muốn…muốn…về.
- Cái gì? Mi…mi…mi muốn về.- Ba anh ngạc nhiên,
đổi giọng nóng giận. Mẹ anh nghe thế cũng giật thót tim.
- Mi điên hả? Mi về thì tau và mẹ mi còn mặt mũi
nào mà nhìn bà con hàng xóm.- Ba anh điếng người, lớn tiếng.
Sau cuộc điện thoại đó, cả ngày lòng anh bị xâu xé
đến mức không chịu đựng nổi. Hễ nghĩ về gia đình anh lại ngơ ngẩn y như người
mất hồn. Nỗi lo lắng đang ngụp lặn nơi anh.
o0o
Tối
đến, giờ kinh vừa xong. Nguyện đường chỉ còn thưa thớt một vài người. Anh ngồi
lại trong không gian yên tĩnh của nguyện đường. Anh thầm thĩ nguyện cầu: “Lạy
Chúa! Xin cho gia đình con chấp nhận sự chọn lựa của con”. Bầu trời đêm nay
không một vì sao. Thỉnh thoảng những tàu lá chuối ở cuối vườn vỗ vào nhau nghe
tiếng loạt soạt. Âm thanh ấy như thể kéo anh ra khỏi giấc miên man suy nghĩ.
Anh dứt khoát quyết định về, chứ anh không thể sống trong tình trạng “ nửa nạc
nửa mỡ ” mãi thế này được. Anh suy nghĩ kỹ rồi, anh không tu nữa. Tu hay về,
anh mới là người quyết định chứ không phải ba mẹ anh. Cuộc đời anh, anh tự chọn
lấy. Anh nghĩ thế rồi anh lặng lẽ đến phòng cha giám đốc, để xin chuyển hướng
ơn gọi. Anh đứng thập thò ngoài mái hiên trước cửa phòng của cha giám đốc. Màn
đêm đen kịt bên ngoài như tâm trạng của anh lúc này. Bất chợt, một cơn gió khẽ
làm lay động các cành cây. Ánh đèn từ trên cao xuyên ngang tán cây len lỏi qua
từng kẻ lá. Ánh đèn leo lét đến bên mái hiên và chiếu tỏa xuống làm ánh lên nét
ưu tư trên khuôn mặt anh càng thêm ảm đạm. Bỗng nhiên, cha giám đốc mở cửa
ra, cha ngạc nhiên hỏi anh: “Con đứng
đây có chuyện gì thế? ”. Cha hỏi làm anh cũng ngượng nghịu khó nói.
- Dạ…dạ...con đến xin cha cho con chuyển hướng ơn
gọi. Con biết đây là tin quá đột ngột với cha.
- Vì sao con muốn chuyển hướng thế con?- Cha giám
đốc hỏi lại anh với giọng trìu mến, trầm buồn.
- Thưa cha, sau khi con suy nghĩ kỹ càng và nói
chuyện với cha linh hướng nhiều lần. Con thấy con không thích hợp với đời sống
của bậc tu trì nữa.
Cha giám đốc tư lự. Cả cha và anh đều chìm sâu trong
lặng thinh. Chỉ có một vài cành phượng khô rớt lộp độp trên mái tôn, đủ phá tan
sự tĩnh mịch của đêm tối mịt mùng.
- Ơn gọi của con, con tự phân định là điều rất
tốt. Thế gia đình con biết ý định của con chưa?- Cha giám đốc ân cần hỏi.
- Dạ hôm
nay con đã điện thoại cho gia đình biết. Ba mẹ con không đồng ý và rất sốc khi
nghe quyết định của con.- Anh nói vẻ mặt anh hiện lên nét buồn bã, âu sầu.
- Con đừng buồn. Chúa không bao giờ tạo ra ngõ cụt
cho con người đâu. Ngõ cụt có chăng là do con người tự tạo ra cho chính mình mà
thôi. Vả lại, cuộc đời đâu phải chỉ có một con đường thẳng, nó có rất nhiều ngã
rẽ nhưng liệu mình có chọn lựa đúng con
đường mà Chúa mong muốn không thôi. Theo cha, con nên về gặp trực tiếp và nói
chuyện với ba mẹ thì hay hơn, rồi có gì con cứ về lại đây suy nghĩ và thong thả
quyết định con nhé.
o0o
Thế rồi
nghe lời cha giám đốc, sáng hôm sau anh về nhà trên con đường còn hoang vắng và
thô sơ nhưng thân quen. Hai bên đường là dãy phi lao cao vút thẳng tắp. Những
cánh đồng bao quanh làng sặc mùi lúa chín thơm ngào ngạt. Làng quê anh yên ả,
lặng buồn như trầm mình vào dòng thời gian.
- Mi muốn tau và mẹ mi cắt mặt mà sống với thiên
hạ hả?- Ba anh đang ngồi ở ghế, thấy anh về, ông liền đứng phắt dậy lấy tay đập
mạnh vào bàn, quát lớn, vẻ mặt ông toát lên sự giận dữ.
Anh chưa kịp bước vào nhà, nghe thế anh đứng tần
ngần ở cửa. Anh sa sầm nét mặt. Bọn trẻ con trong xóm nghe to tiếng, chúng hiếu
kỳ tụm lại, đứng lấp ló trước ngõ nhà anh.
- Thôi mà ông, con nó mới về để nó ngồi uống miếng
nước đã ông.- Mẹ anh lên tiếng. Bà nói tiếp:
- Vào nhà đi con.
- Bà lúc nào cũng bênh con, con nó ương bướng như
thế này là do bà cả.- Ba anh nhìn chằm chằm vào mặt mẹ anh, buồn bực nói.
- Ông…!- Mẹ anh rân rấn nước mắt.
- Bây giờ mi nói đi. Tại sao mi về? Mi còn nhớ
thằng Khanh con ông Bảy ở xóm dưới chứ? Nó đi tu như mi. Nó về. Bây giờ chuyện
gì ập xuống gia đình ông Bảy, người ta cũng bảo: “Do con ông ăn lường Hội
Thánh nên mới trở nên thế này”. Cả gia
đình ông Bảy không cất nổi mặt mà sống với thiên hạ đó. Có cái gương sờ sờ
trước mặt, sao mi không soi?- Ba anh đi lui đi tới, múa tay vò đầu, chặc lưỡi,
nhăn nhó.
Nghe
những lời ba anh nói, anh ấm ức thầm trách người đời: “Tại sao người ta lại có
những suy nghĩ thật nông cạn như vậy chứ ? Thời gian ở chủng viện là thời gian
thụ huấn để cho ứng sinh biện phân ơn gọi và tập sống ơn gọi mà. Cũng chính vì
sợ tiếng đời nên biết bao ứng sinh muốn về nhưng họ không dám về. Họ không dám
đối mặt với sự thật, họ sợ người đời chê trách. Thậm chí có người nghĩ rằng đến
nước này thôi thì ‘ phóng lao thì phải theo lao ’. Đó là ý nghĩ sai lầm, chỉ
khiến đời tu của họ trở nên ngán ngẩm, ê chề ”. Anh cũng nhớ lại lời các ông
cụ, bà cụ ở làng thường nói mỗi khi gặp anh: “Cố gắng mà đi tu cho sướng con ạ!
Ở đời chi cho cực…”. “Có lẽ đó là câu ‘ điệp khúc ’ quen thuộc mà những ai đi
tu ít nhiều cũng đã được nghe. Phải chăng cũng vì nghe điệp khúc ấy, nhiều
người cứ dấn thân đại vào đời tu rồi ‘ nhắm mắt qua cầu ’ , tiến chức linh mục.
Vui vẻ, hạnh phúc, hồ hởi được vài ngày đầu mới làm linh mục: nào là lễ mở tay,
lễ tạ ơn giáo xứ này giáo xứ nọ, được người ta dâng quà, cung phụng... Nhìn
đúng là sướng thật! Nhưng đằng sau những ngày sung sướng ấy là những chuỗi ngày
dài lê thê, chán nản, rầu rĩ, buông xuôi. Để rồi từ đó họ cảm thấy hối hận và
không thích sống đời linh mục nữa. Chính vì lẽ đó, họ buông thả trong lối sống,
hững hờ trong việc đạo đức và quên múc lấy căn tính cội nguồn nơi Đức Giêsu
Kitô…Đó là những nguyên nhân khiến họ sa ngã và làm hoen ố giới giáo sĩ đó sao.
Người linh mục không phải chỉ sở hữu được chức linh mục rồi là xong, mà cái
thiết yếu là sống chức linh mục. Niềm vui đời linh mục chỉ có được khi nhận ra
đích điểm của ơn gọi mà thôi ”. Anh trầm tư một lát. Anh cất tiếng:
- Ba mẹ à ! Con biết con về ba mẹ sẽ rất buồn.
Ngày con đi tu ba mẹ đã kỳ vọng ở con thật nhiều, để giờ đây nghe con về ba mẹ
thất vọng ở nơi con cũng thật nhiều.- Anh nhìn ba mẹ anh rồi cố nuốt những giọt
nước mắt chảy ngược vào trong, ngậm ngùi nói tiếp:
- Ba mẹ ! Con biết con đi tu là một niềm hãnh diện
lớn cho ba mẹ. Nhưng càng tu, con càng khám phá ra bản thân mình không thích
hợp với đời sống tu trì. Tiếp tục tu con càng sợ mình sẽ rơi vào vũng lầy của
đời tận hiến. Nếu con cố tu thì trong tương lai không chóng thì chày con sẽ bị
cuốn theo vòng xoáy của cám dỗ, làm xấu chức linh mục, xấu Hội Thánh. Con tu là
tu cho Chúa chứ con không tu cho người đời. Con lớn rồi, tương lai của con, xin
ba mẹ để cho con chọn lựa.
Hai
hàng nước mắt mẹ anh dàn dụa, nóng hổi chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét
thông cảm. Ba anh lặng trân người, ngồi nhơ tay với lấy tách trà, nhấp một
ngụm, cầm điếu thuốc bập bập trên môi mà không buồn đốt. Không gian yên ắng đến
lạ lùng. Bầu trời xanh ửng màu nắng nhưng đâu đó vẫn thoáng xuất hiện những gợn
mây kéo tới làm mờ đi tia nắng chói chang của ban trưa. Thưa thoảng một vài
chiếc xe máy chạy ngang phá vỡ vẻ nặng nề của buổi trưa vùng ngoại ô. Anh lặng
lẽ cất bước trở về chủng viện.
o0o
Hai tuần sau, anh quyết định giã từ mái nhà
chủng viện với bao kỷ niệm thân thương mà nơi đây anh đã từng tu học, bây giờ
chỉ đưa vào ký ức. Anh nói lời từ biệt
với mọi người, anh nói lời tri ân với quý cha
kính yêu. Khuôn mặt mọi người, ai cũng có nét đượm buồn. Trong căn phòng
hôm ấy đều tề tựu đủ tất cả mọi người, anh nhận ra chỉ có thiếu một mình cha
giám đốc. Anh bèn chạy đến phòng cha, cố tìm cha cho bằng được để anh nói lời
chia tay. Cánh cửa phòng cha chợt mở ra. Cha nói với anh : “Con về bình an, khi
nào con rãnh nhớ ghé thăm chủng viện. Mỗi năm vào dịp lễ Xuân Bích nhớ về họp
mặt nhé con ”. Nói xong, cha tặng cho anh một kỉ vật. Anh chẳng nói được gì chỉ
biết ôm chầm lấy cha. Anh rơm rớm nước mắt , cha cũng cay cay dòng lệ. Anh nhìn
vào đôi mắt cha thật sâu, rồi anh bước lên xe. Chiếc xe chạy dần xa tít, để lại
phía sau một vệt khói dài. Cha giám đốc lặng buồn vì mất đi một ơn gọi, nhưng
cha lại thầm vui vì sự chọn lựa trưởng thành của anh.
Mã số: 16-047
NGƯỜI TỐT
-
Thủy ơi, cuối buổi rảnh không đi café chị có chuyện nhờ em.
-
Không được chị ơi, hôm nay em phải đón con, mai được không ạ? Hay có chuyện gì
chị nói luôn cũng được, café làm gì mất thời gian chị.
-
Không được đâu, việc hệ trọng, à mà thôi cuối tuần vợ chồng chị đến nhà gặp ông
xã em luôn vậy.
Có
chuyện gì trọng đại thế nhỉ, Thủy đoán già đoán non mãi không ra. Thôi cứ để
cuối tuần xem sao…
*
* *
Thủy gặp Chị lần đầu ở Ký túc xá những năm chín
mươi thế kỷ trước. Chị học cùng khóa nhưng hơn Thủy một tuổi, người Hà Nội, nhà
cách trường có mười lăm cây số nhưng chị ngại đi nên vào Ký túc “ở cho nó lành”
- là chị nói thế. Hôm đầu ăn cơm Ký túc, chị xơi hết thức ăn ở phần trên tô cơm
rồi ngớ người ra, Thủy phải “chia” cho chị miếng đậu hũ rán và mấy hạt lạc rang
muối để chị “có cái ăn với cơm”, ai cũng cười bảo chị “con nhà lành”, đánh bạn
với Thủy thành “cặp đôi hoàn hảo” luôn. Hai chị em cứ thế, “con chấy cắn đôi”
đến ngày ra trường. Ngày chia tay hai đứa khóc sướt mướt. Hồi đó đâu có điện
thoại di động như bây giờ, mạng internet cũng chưa phát triển, nhớ nhau lắm chỉ
viết thư tay mà cũng mất cả tuần thư mới đến nơi. Thủy về quê xin việc mãi
không được vì nhà nghèo lại không quen biết “người trên”, chán nản phải quay
lại Hà Nội vì “dù sao cũng có tổ chức thi tuyển” chứ không chỉ đơn thuần “xin
xỏ” như ở quê. Công việc chẳng đâu vào đâu nhưng chí ít cũng không phải “cầu
cứu” bố mẹ, có việc thì đủ ăn, còn đâu để dành “trụ lại Hà Nội” khi bị sa thải.
Làm cái nghề kế toán này thật khó, Thủy thẳng thắn trung thực lại là người Công
giáo nên lắm lúc không chịu ghi sai ghi lệch theo ý sếp, vậy nên chẳng trụ được
chỗ nào lâu. Cuộc sống vật vờ nơi đô thành chỉ thay đổi khi vào một ngày đẹp
trời, Thủy bỗng nhận được cuộc gọi đến nhà trọ. Là Chị. “Ê Thủy hâm, mày mang
hồ sơ lên chỗ tao rồi sáng thứ hai đi làm, gặp nhau nói chuyện luôn”. Cú điện
thoại nửa phút nghe như đùa đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của cô.
Thì
ra chị là “con nhà có điều kiện”. Tốt nghiệp xong về làm ở công ty bố là Giám
đốc, chỉ vài năm chị thăng chức Kế toán trưởng luôn. Thảo nào chị có thể quyết
một câu xanh rờn “mang hồ sơ lên chỗ tao rồi sáng thứ hai đi làm”. Vừa gặp lại,
chị bảo Thủy luôn:
-
Mày biết nguyên tắc “hai sổ” rồi đấy, cái tính ương gàn của mày chỉ phụ trách
được cái “sổ một” thôi, làm cho thật tốt, đừng để ý cái sổ kia làm gì, việc đó
để tao lo.
Thủy
ngỡ ngàng, không ngờ mọi việc lại dễ dàng đến thế. Được hai năm, chị bảo Thủy:
- Chắc sắp tới tao lên Phó tổng, hay là mày vào
Đảng đi, tao chốt cho mày chức Phó phòng cho chắc chân, tao lên trên kia cũng
yên tâm.
Thủy chối, bảo sợ không làm được, chị cười:
- Thôi tao chả biết nguyên nhân rồi, tùy mày, có
gì khó khăn cứ ới tao một tiếng là được. À mà lấy chồng đi, ế nhăn nhở ra rồi
đấy, cứ ngồi mà đợi lấy chồng người Công giáo thì có khi bạc tóc cũng chưa kiếm
ra đâu em ạ.
Tưởng chị nói bâng quơ vậy, ai dè mấy tháng sau
chị bảo:
- Đi café với tao, xem mặt đi.
- Á á, chị, không đâu, ngại chết đi được, em còn
trẻ mà…
- Gần ba mươi trơ mỏ ra đấy rồi còn kiêu! Yên tâm
đi, anh này là người Công giáo, cũng ế nhăn ế nhở ngồi đợi lấy cho được người
Công giáo như mày ấy.
Thế mà lại nên duyên. Thủy cũng không hiểu cô tốt
số gì mà được “quý nhân phù trợ” vậy, “quý nhân” của cô chẳng đâu xa vời mà
chính là người bạn thân, hơn thế là sếp của cô, còn kiêm luôn vai trò “bà mối”,
nếu nói là người “sinh ra cô lần thứ hai” có lẽ cũng không quá…
*
* *
Lấy chồng được nửa năm thì Thủy có bầu nhưng niềm
vui sớm thành nỗi lo. Khi đi siêu âm thai tuần thứ mười bốn, mấy bệnh viện các
bác sỹ đều kết luận nên “đình chỉ thai” vì nguy cơ lưu thai cao mà nếu có sinh
ra thì đứa bé cũng khó sống được hoặc dị tật rất nặng nề. Hai vợ chồng vô cùng
hoang mang không biết làm thế nào, cái bấu víu duy nhất là những bài test trước
đó “Double test”, “Triple test” đều tốt nhưng bác sĩ bảo hình ảnh siêu âm mới
là quan trọng, các bài test đó chỉ “sàng lọc” được tỷ lệ nhỏ thôi. Vợ chồng
Thủy phải gõ đến cánh cửa cuối cùng: Hội chẩn ở Bệnh viện phụ sản Trung ương.
Chạy qua chạy lại “nhà H” của bệnh viện, hai vợ chồng thấy một cảnh tượng hết
sức tương phản: cùng một dãy nhà, phía bên trái dành cho người chữa hiếm muộn,
bên phải là nơi cô đến hội chẩn “sàng lọc trước sinh” còn ở giữa cũng là phần
chiếm nhiều gian phòng nhất là nơi nạo phá thai. Cùng một dãy nhà mà vẻ mặt,
tâm trạng của mỗi người một khác, nhưng ắt hẳn ai cũng ước giá như dãy nhà này
không tồn tại…
Chị biết chuyện, “nhẹ nhàng” khuyên:
- Thôi bỏ đi em ạ, để sức sinh đứa khác, quá rủi
ro rồi, khỏi hội chẩn hội chiếc gì cho mệt, đến khi có kết quả hội chẩn thì
thai đã lớn rồi, phải kích đẻ non đấy, không phá được nữa đâu.
Thủy ngỡ ngàng không chỉ bởi câu nói mà thái độ có
phần vô cảm của chị:
- Sao chị nói vậy, vẫn còn hy vọng mà, vợ chồng em
sẽ không bao giờ từ bỏ dù chỉ là cơ hội nhỏ nhoi. Mà sao chị biết rõ chuyện phá
thai quá vậy?
- Ôi sời, tao bỏ mấy lần rồi, có sao đâu - Chị
thủng thẳng - Hơi đau một chút thôi. Còn cái chuyện kích đẻ non ấy, là bác sĩ
nói thế, tao đã làm bao giờ đâu…
“Bỏ mấy lần”, Thủy sửng sốt, không thể tin người
trước đang đứng trước mặt mình nói đến chuyện bỏ con dễ dàng như vậy chính là
chị, người mà lâu nay vợ chồng cô vẫn thường ví như một vị thánh…
Thì ra chồng chị là tộc trưởng của một dòng họ
lớn, đứa đầu của chị là con gái nên đứa thứ hai chị phải sinh bằng được con
trai để “nối dõi tông đường”. Với gia đình nhà chồng “nhất nam viết hữu, thập
nữ viết vô”, chị mà không được sinh con trai thì không giữ được được gia đạo,
thậm chí còn phải cho phép chồng “đi ra bên ngoài”. Mấy lần siêu âm con gái chị
đều “phải cho ra”. Thảo nào chị còn bảo Thủy: “Con gái mà, tiếc gì…”.
Thủy nghe mà rụng rời, cô đoán chắc có nhiều người
cũng đang làm như chị, song cô vẫn thấy khó tin người ta có thể nhẫn tâm như
vậy, càng không tin có vị tổ tông nào vì muốn có người thờ phụng mà khuyến
khích con cháu mình giết hại thế hệ kế tiếp cả. Cũng từ đó mỗi lần cô nhìn thấy
chị là gai ốc lại nổi lên, tình cảm với chị không còn như trước. Chị không hề
để ý, vẫn coi Thủy như em gái, lên làm Phó tổng vẫn dặn dò sếp mới của Thủy
“cho nó làm sổ một thôi”.
*
* *
Có lẽ lời nguyện xin Chúa xót thương của gia đình
Thủy đã được Ngài chấp nhận, bác sỹ trưởng ban hội chẩn kết luận: “Em bé sinh
ra có khả năng dị tật, nhưng các bác sĩ nhi khoa có thể khắc phục được phần
nào”. Câu nói đó như chiếc phao cứu sinh cuối cùng của vợ chồng Thủy và kỳ lạ
thay những kết quả siêu âm sau đó mỗi lúc một tốt lên, đứa bé sinh ra kháu khỉnh
chẳng có dị tật gì, bác sĩ nhi khoa xem mớ kết quả siêu âm thai cũng phải nhìn
nhận: “có cái gì đó không đúng”. Ai cũng bảo là “chiến thắng dành cho người
dũng cảm”, chỉ có chị không đồng ý: “dũng cảm cái gì, liều lĩnh thì có”. Chẳng
sao, với vợ chồng Thủy chỉ cần con bé lớn lên khỏe mạnh, phát triển bình thường
là được rồi…
Chị lại có bầu, các bác sĩ bảo là con gái nhưng có
vị bảo không chắc chắn lắm nên chị cố đợi thêm vài tuần để kết quả chính xác
hơn song “kết quả vẫn vậy” nên chị quyết định “phải cho ra”. Thủy biết chuyện
khuyên chị mãi, chị đã xuôi xuôi nhưng bất ngờ hai tuần sau có người gọi báo
tin chị bị băng huyết rất nguy kịch. Thủy tất bật chạy vào bệnh viện mới hay
chị bị tai biến lúc kích đẻ non và một điều không ai ngờ tới - đứa bé lại là
con trai. Thấy con chỉ thoi thóp được ít giây rồi đi, chị không giữ được bình
tĩnh, gào thét ôm hài nhi chạy như điên dại khắp “nhà H”, mọi người chỉ đuổi
kịp khi chị ngất lịm giữa cầu thang.
Sau
hôm đó, chị nằm bẹp gần một năm mới đi làm trở lại nhưng thi thoảng vẫn ngơ
ngẩn như người mất hồn. Mỗi lần Thủy đến thăm chị đều khóc, quay mặt vào tường
không tiếp. Chị đâu dám nhìn mặt Thủy - để nói rằng chị đã không đủ dũng cảm,
rằng hậu quả hôm nay chị lãnh lấy là do đã không nghe lời cô sao…
*
* *
Thủy
đứng lặng trước cửa sổ phòng trọ miên man suy nghĩ. Chuyện hệ trọng của chị là
một bài toán hóc búa cho Thủy: nhờ mang thai hộ. Chị nói sẽ “làm việc” với bác
sĩ nên chắc chắn sinh bé trai, cứ yên tâm…
Còn dịp nào tốt hơn để trả ơn chị nữa đây, thêm
nữa chị sẽ phụ cho nửa tiền căn hộ chung cư mà vợ chồng Thủy chưa gom đủ. Thế
nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Thủy mang thai bé gái hay đứa bé có dịt tật bẩm
sinh? Trường hợp cô và chính chị vừa rồi, các ngài bác sĩ cũng đã nhầm đó thôi.
Chưa kể việc mang thai hộ vơi mục đích lựa chọn giới tính là vi phạm pháp luật
nữa. Thủy rất muốn giúp chị, muốn làm “người tốt” lắm nhưng sao khó quá…
Có
tiếng trở mình, Thủy ngoảnh lại, ánh mắt như giãn ra. Dưới ánh trăng vàng nhạt
xuyên qua cửa sổ là hình ảnh con bé vắt chân lên cổ bố như mọi khi, đáng yêu
như một thiên thần. Chúa nói: "Ai không trở nên như trẻ thơ, thì
chẳng đáng vào Nước Trời", cổ nhân cũng dạy “nhân chi sơ tính bản
thiện”, biết mai ngày lớn lên con bé có trở thành “người tốt” không, tốt như Mẹ
Nuôi của nó chẳng hạn…
Mã số: 16-048
NGHIỆP CHƯỚNG
“Thuê bao quý khách vừa gọi…”, tiếng nhân viên
tổng đài lại vang lên trong điện thoại, bà Thu tắt máy thở dài. “Thôi, ra Hà
Nội mình gọi lại cho nó, lúc về ghé qua vậy”.
Bà được tuyên dương là giáo dân tiêu biểu trong thực
thi bác ái của Giáo hạt, phần thưởng là một chuyến du lịch Thủ đô, hành hương
về Tổng giáo phận Hà Nội, đoàn còn viếng thăm nhiều địa danh nổi tiếng như Bùi
Chu, Phát Diệm nữa. Bà có thể tranh thủ qua Đại học Y Thái Bình xem nơi con bé
Ban ăn ở, học tập. Hơn hai năm nay mấy lần nhắm nhót định đi nhưng bận việc này
việc kia nên chưa thực hiện được. Thế mà gọi điện mãi nó không bắt máy, nhỡ lúc
mình đến con bé lại đi thực tập xa thì dở việc ra, có lần gọi nó bảo thế mà.
Cái tên Ban của nó có “nguồn gốc xuất xứ” hẳn hoi
nhé. Bà lấy chồng ba năm chưa có con, mấy lần đi khám hiếm muộn thấy người ta
phá thai, bà xót xa xin Bệnh viện cho mang về tắm rửa, đặt tên rồi chôn cất ở
gò đồi sau nhà. Ai cũng bảo vợ chồng bà “có vấn đề”, nhất là những người ngoại
giáo, họ cho rằng hai người rước oan hồn về nhà thế này thì nghiệp chướng nặng
nề lắm, làm sao có con được. Có lúc vợ chồng bà thấy nản, chữa hiếm muộn mãi
không xong bởi các bác sỹ soi soi xét xét chán cũng chỉ phán một câu xanh rờn
“hai người… đều bình thường”. Đôi lúc bà ngã lòng: phải chi là người ngoại giáo
thì mình ly dị cho rồi, biết đâu mình lấy người khác lại có con mà anh ấy lấy
vợ mới cũng có người nối dõi. Cũng có lúc hai vợ chồng cân nhắc thôi xin thai
nhi về chôn cất vì sợ “nghiệp chướng”, phần đất trống ở gò đồi cũng hẹp đi
nhiều, lơ mơ còn bị chính quyền xử cho cái tội chiếm dụng đất bất hợp pháp thì
khổ. Nhưng rồi bàn tính thế nào vợ chồng bà lại đi xin xã cho phát quang bụi
rậm để mở rộng “nghĩa trang anh hài” và rất bất ngờ khi được chính quyền đồng
tình, cấp hẳn cả gò đồi 3000m2 cho hai người quản lý. Từ đó mỗi khi có tin từ
Bệnh viện, bà lại gọi ông về trông quán, tất tả lên Khoa Sản đem thai nhi về
nhà tắm rửa rồi mang ra nghĩa trang chôn cất. Khi đã ngoài ba mươi, không thèm
đi thăm khám hiếm muộn nữa, đang tính xin con nuôi thì bất ngờ bà có thai, ban
đầu bụng to ra bà còn tưởng bị đầy hơi, khi đến bệnh viện nhận thai nhi, bác sỹ
thấy bụng bà “lùm lùm” nghi nghi gọi vào khám mới ngã ngửa ra đã có bầu gần bốn
tháng, rõ chán, may mà không sao. Xem như là ơn từ trời xuống, hai ông bà đặt
tên con bé là Ban. Hai mươi năm trôi qua, con bé sinh ra từ “nghiệp chướng”
ngày nào đã lớn lên xinh đẹp học giỏi, đỗ Đại học Y Thái Bình hẳn hoi, ai mà
không biết đến con gái “bà Thu nghĩa địa”.
*
* *
Nhà thờ Thái Hà bà được hành hương hôm nay là nơi
có nhóm “Bảo vệ sự sống” cũng làm công việc hơn hai mươi năm của vợ chồng bà:
mang thai thi về khâm liệm và chôn cất. Đón chào đoàn của bà là cha Đông,
trưởng nhóm “Bảo vệ sự sống”, kiêm trưởng nhóm “Lòng thương xót Chúa”. Gặp bà,
cha nhận ra ngay:
- A, “bà Thu nghĩa địa” phải không, trông có vẻ
trẻ hơn trên báo nhỉ…
- Dạ, con chào cha ạ! - Sau phút lúng túng bà tếu
táo - Con hơn năm mươi rồi cha, cũng đủ tuổi “về hưu” rồi cha ạ.
- Bà mà “về hưu”, ai coi sóc các anh hài cho cha
chứ - Cha lại cười, nụ cười buồn, chua xót như đang nuốt nước mắt vào trong -
Cha cũng ước bà được “về hưu” còn cha thì “thất nghiệp” luôn ấy chứ…
Không khí trong phòng dường như đông đặc lại, mọi
người bần thần nhìn nhau. Ai cũng biết công việc cha và “bà Thu nghĩa địa” đang
làm. Ước mong của bà Thu dường như rất bình thường, ước nguyện của cha tưởng
như kỳ quặc nhưng không biết bao giờ hai người mới thỏa nguyện…
- Cha Phaolô ơi, ngài có quà này - Bên ngoài có
tiếng gọi cắt ngang dòng suy tư của mọi người.
Một vị mặc áo chùng thâm bước vào trao cho cha
Đông “món quà”, đó là một chiếc hộp thủy tinh rất đẹp, nhìn rõ bên trong có một
thai nhi đã đủ hình hài và một bức thư khiến ai nấy bàng hoàng. Cha đọc thư,
thẫn thờ, nước mắt lặng lẽ rơi. Ngài lẩm bẩm trong tiếng nấc: “Xin Chúa tha
tội, vậy là con lại không hoàn thành nhiệm vụ nữa rồi”… Vị mặc áo chùng thâm vỗ
vỗ vai cha: “Cha đã cố gắng hết sức rồi, Chúa hiểu mà…”. Cha quay lại, giọng
run run như thanh minh với mọi người:
- Thư của
mẹ thai nhi, đồng hương nhà mình đấy, mấy hôm trước cô gái này nói chuyện với
cha hơn ba giờ đồng hồ, nó bị lừa tình không muốn giữ lại đứa con, cha khuyên
nhủ nó đã nghe rồi, vậy mà… Sẵn có bà Thu ở đây, giúp cha luôn nhé!
Cha hạ giọng, lẩm bẩm:
- Người Công giáo, sinh viên năm ba trường Y Thái
Bình rồi mà còn ra nông nỗi này…
“Sinh viên năm ba trường Y Thái Bình”, bà Thu giật
bắn mình dù cha nói rất nhỏ, bà run run lại gần nhìn cho kỹ bức thư, những dòng
chữ quen thuộc như đang nhảy múa trước mắt bà: Chữ g dãn rộng ngoắc dài ra phía
sau, dấu ngã xoắn lên trên… Chân của bà khuỵu xuống…
Mã số: 16-049
BỒ CÔNG ANH!
Buzz! Một tiếng buzz từ những cái nick yahoo đang
sáng, tôi giật mình nhìn ra thì là cô bạn trong nhóm cầu nguyện.
- Hi, khỏe không?
- Tớ khỏe, cậu khỏe không?
- Cũng bình thường nhưng…
- Nhưng gì?
- Tớ muốn đi tu cậu ạ!
- Hehe…Vì sao muốn đi tu? Thế bao giờ mới vào Dòng?
- Tớ phải học xong đại học đã.
- Umh, bây giờ phải chú tâm học cho xong.
- Nhưng…
- Sao vậy? Có điều gì à?
- Uhm, tớ không biết thế nào nữa, cái cảm giác đó
làm tớ sợ cậu à!
- Cảm giác gì?
- Hic, khó nói lắm!
- Chuyện này tớ không có nói cho ai đâu.
- Hehe… Nếu cậu tin tớ, và cậu có thể nói được thì
nói tớ không có ép.
- Uhm… Đợi tớ một tí nhá!
- Ok, tớ có thời gian mà… Hehehe!
- Nhưng mà cậu phải hứa là không cho ai biết cơ
đấy.
- Được rùi, cậu biết tớ mà.
- Uhm… Cậu lại động vào nỗi đau của tớ rồi.
- Hehehe… Cậu nói đi tớ đang nghe.
- Uhm… Tớ không muốn chuyện đó xảy ra với tớ, tớ
đã khóc và cảm thấy tội lỗi rất nhiều. Tớ không hiểu mình lúc đó nữa cậu ạ! Tớ
đã yếu lòng, tớ không muốn như vậy nhưng tớ đã làm. Tớ chỉ rung động một chút
nhưng…
- Sao? Cậu nói tiếp đi…
- Người đó nói là yêu tớ nhưng tớ nói là không
xứng với người ấy… Uhm… Người đó cũng đi tu nhưng…
- Nhưng sao?
- Lại ra rồi cậu ạ! Tớ không biết lý do là gì. Vì
thế tớ thấy áy náy. Nhưng tớ sợ và tớ đã khóc nhiều lắm. Người đó gọi điện,
nhắn tin nhiều cho tớ. Hôm đó tớ và người ấy nói chuyện riêng.
- Uhm… Rồi sao nữa?
- Người ấy nói là đã thôi không đi tu nữa để theo
đuổi một người… Tớ muốn an ủi người đó. Lúc đó tớ đã yếu lòng cậu ạ! Tớ… tớ…
- Sao? Đừng có ngại.
- Tớ đã để người đó ôm tớ. Người ấy nói, vì yêu tớ
nên mới ra tu, tớ cũng không biết phải làm sao nữa. Lúc đó tớ quá xúc động nên
đã để người đó làm như vậy. Tớ khóc nhiều lắm, tớ thấy tội lỗi. Tớ thấy có tội
với Giêsu. Tớ muốn giữ sự trong trắng, khiết tịnh để theo Ngài. Cậu hiểu mình
không?
- Có, tớ hiểu được cảm giác của cậu.
- Cảm ơn cậu. Tớ đã khóc khóc rất nhiều khi nghĩ
đến chuyện đó. Những đêm tớ nghĩ về chuyện đó tớ lại mặc cảm. Mình muốn khiết
tịnh để dâng cho Chúa. Tớ thấy mình không xứng đáng để đi tu cậu ạ.
- Cái gì là xứng hay không xứng với Đức Giêsu chứ!
Cậu muốn trong trắng từ trong tâm hồn tới thể xác, một tâm hồn đẹp hết sức.
Nhưng vì một phút xiêu lòng cậu đã để người đó ôm mình. Nhưng những giọt nước
mắt cùng cái cảm thức dằn vặt đã là câu trả lời cho mối tương quan giữa cậu với
Đấng Tối Cao rồi. Mình nghĩ cậu đã trong sạch tâm hồn, cậu đã khóc rất nhiều,
khóc cho sự yếu đuối đó, liệu cái ôm đó có còn quan trọng không, khi cậu luôn
thao thức, khao khát trọn vẹn hướng về Chúa. Cậu nói cậu mặc cảm và tưởng như
không thể xóa đi được vết nhơ đó. Nhưng mình nghĩ, có phải ai đi tu cũng đều có
quá khứ trong sạch đâu, coi như đó là một bài học kinh nghiệm để cậu vững tin
trên con đường dâng hiến, tớ nghĩ cậu sẽ làm được với tâm hồn khao khát. Vết
thương ấy là dấu chứng của khát vọng mà cậu dành cho Giê su lớn dường nào. Và
vết thương Giêsu cũng là chứng tích cho một tình yêu tròn đầy đó sao? Dẫu rằng
đắng lòng nhưng tình yêu sẽ bao bọc tất cả, hàn gắn tất cả. Hai vết thương
chẳng phải đã có điểm dừng rồi sao, khởi điểm cho một tình yêu vẹn toàn.
* * *
Ngày vào Sài Gòn, tôi không gặp được bạn, để viết
tiếp giấc mơ của mình. Thời gian đã đưa tôi và bạn đến những vùng trời mới. Tôi
gặp lại cô bạn trong cầu nguyện, trong cuộc trò chuyện xa mặt nhưng cạnh lòng
qua những tin nhắn ngắn ngủi dịp nào đó.
- Tớ sẽ vào Dòng cậu ạ!
- Dòng gì đó?
- Rồi cậu cũng sẽ rõ.
- Uhm…
- Cảm giác hoang hoải, miên man hết sức. Tạm biệt
giảng đường, nói lời chia tay với những con đường ngập hoa sữa, để rồi… Bây giờ
tớ chỉ quen mấy việc làm cỏ, nhặt rau trong Dòng thôi.
- Uhm, nhưng cậu thấy sao?
- Tớ thấy mình được yêu hết sức cậu ạ!
- Vậy tốt quá rồi.
- Tớ thích những công việc nhỏ bé và tầm thường.
- Không nhớ ngành y sao?
- Không, nếu Chúa muốn tớ sẽ dùng vào dịp khác.
- Uhm, tớ vui với cậu.
- Còn cậu, vẫn mơ đấy chứ?
- Uhm, mơ nhiều lắm, nhưng sao thấy mình giới hạn
quá.
- Hehe, cậu lúc nào cũng thế, chàng lãng tử của
Giê su!
- Haha, có lãng đãng thì có.
- Ê, nhớ hồi còn ở nhóm cầu nguyện quá!
- Trời, tớ cũng thế.
- Hồi đó, hồn nhiên thích gì là cầu nguyện đó.
- Bây giờ cũng thế mà.
- Uhm, nhưng thích tình thuở đầu hơn.
- Uhm, thì tình thưở đầu! Cái thời sinh viên,
những con người trẻ không hẹn mà gặp ở tối chủ nhật. Chẳng hiểu sao, hồi đó,
tôi muốn nhanh cho hết tuần để chìm vào giữa những ánh nến nhẹ nhàng và thả hồn
vào những bản nhạc lặp đi lặp lại. Chỉ biết ở đó được chậm lại, được nghe rõ
hơn âm thanh phố phường và tiếng lòng
mình. Chẳng là, có vài người trẻ tụ lại, thắp mấy cây nến xung quanh tượng chịu
nạn và mở mấy bản nhạc không lời. Cứ như thế, cả nhóm chìm vào bầu khí thinh
lặng không hay. Rồi những âm giọng cất lên ngập ngừng, nghẹn lòng, lúc đó tiếng
nói là tiếng lòng, chúng tôi cầu nguyện như vậy, câu được câu không nhưng là
chân thật và đơn sơ. Có cả những giọt nước mắt mắc trong tiếng, nghe sao chạnh
lòng vô cùng, Giêsu đã ở lại, ở lại cho đến cùng. Ở lại trong những vết thương
mà xã hội đã loại trừ, chỉ có tối chủ nhật mới có dịp được băng bó bởi tình yêu
lắng nghe.
…
- Cậu khóc ư?
- Uhm…
- Sao vậy?
- Chẳng biết nữa, chỉ thấy nước mắt muốn trào ra.
- Uhm, người đó sao rồi?
- Tớ đã nói rõ rồi…
- Nói sao?
- Thì cảm ơn và chỉ làm bạn thôi.
- Uhm, vậy cũng tốt!
- Cảm ơn cậu nhiều lắm.
- Chi vậy?
- Thì lắng nghe.
- Hehe, cảm ơn cậu nhiều lắm, vì đã tin tưởng mình.
- Uhm… Cảm ơn Chúa vậy, hehe…
- Uhm… Cùng cầu nguyện cho nhau nhé!
Tôi lặng lẽ nhìn vào màn hình laptop, nick Bồ Công
Anh đã offline rồi, một khuôn mặt đang nhìn tôi từ ảnh nền desktop sao thấy
bình an hết sức. Hình Giêsu trong trang phục người mục tử, ôm trọn con chiên
lạc mà Người vừa tìm thấy. Niềm vui sao diễn tả nổi, có một Giêsu đang ở đây.
Nick Bồ Công Anh hiện lên status in nghiêng “Con muốn làm bông Bồ Công Anh
dại”.
Mã số: 16-054
CHA
Cô cảm thấy thật thoải mái, nhẹ nhàng. Hôm nay là
Chúa Nhật mà. Cô được đi lễ, được nghỉ ngơi sau một tuần làm việc vất vả, lại
có thể đi nơi mình thích, làm điều mình muốn và tất nhiên không quên gọi điện
về cho cha mẹ yêu dấu ở quê nhà.
Tút... Tút... “Không biết mẹ đang làm gì vậy nhỉ?”-
Cô bấm gọi thêm lần nữa.
- Alô!
- Dạ, mẹ bận gì mà không bắt máy vậy ạ?
- Ừ, mẹ vào trong phòng lấy cái áo khoác chuẩn bị
đi đọc kinh với cha con. Gần tới giờ rồi.
Trâm nhìn đồng hồ, 3 giờ kém 20.
- Giờ này đọc kinh hở mẹ? Trước giờ con đâu thấy
cha mẹ đi.
- Cũng mới thôi con à, sau ngày khai mạc năm thánh
lòng Chúa Thương Xót. Mấy ngày đầu, cha con đi một mình, mẹ có biết đâu. Cha xứ
thấy vậy bèn nhắc nhở chung giữa nhà thờ: “Các ông bà lớn tuổi, nếu buổi chiều
không bận gì thì cố gắng đến nhà thờ, cùng nhau lần chuỗi Thương Xót lúc 3 giờ
chiều để cầu nguyện thêm cho mình và cho mọi người.” Thế là từ một người, ba
người, rồi năm người, mười hai người. Bây giờ cha con kéo thêm hai chục người
nữa đó.
- Ôi, thích mẹ nhỉ? Thế là giáo xứ lại có thêm
việc làm đạo đức.
- Mấy đứa ở trong nhớ mà đọc kinh nghe con. Cha mẹ
chỉ lo các con sống ở thành phố, bị nhiều cái cám dỗ rồi quên Chúa mất.
Cô xúc động lắng nghe những lời nói ấm áp của mẹ.
- Mẹ yên tâm. Ba chị em trong phòng vẫn đọc kinh
chung mỗi tối, không lần chuỗi Thương Xót thì lần chuỗi Mân Côi mẹ à. Có ngày
lần cả hai nữa chứ.
- Vậy là tốt quá rồi. Bỏ gì cũng được chứ Chúa thì
không được bỏ nghe con. Mất tiền, mất việc chứ đừng để mất Chúa.
- Dạ
-Thôi, cha mẹ đi đọc kinh đã, lúc nào về mẹ gọi
lại, sắp tới giờ rồi.
-Dạ. Cha mẹ nhớ cầu nguyện thêm cho tụi con đó.
- Cái đó thì ngày nào chẳng nhớ. Mẹ tắt máy nghe!
Cuộc điện thoại chỉ mấy phút vội vàng, chẳng “buôn
dưa” như những lần trước, thế mà cũng đủ làm Trâm ấm áp trong tiết trời mùa
đông. Cô nhớ cha, người cha tuyệt vời trong trái tim cô. Đó là người thầy đầu
tiên dạy cô biết làm dấu, đọc kinh; là người cho cô kè kè bên mình mỗi lần đi
dự lễ. Đó còn là người khơi nguồn tình Chúa trong cô, đặt đá nền xây dựng đời
sống thiêng liêng giúp cô kết hợp với Chúa, Mẹ qua những lời nguyện đơn sơ.
- Trâm làm gì mà ở ngoài đài lâu vậy?- Bác hàng
xóm tò mò hỏi.
- Con xin với Chúa, Mẹ cho cha mẹ được khỏe mạnh,
cho anh chị em con học giỏi, ngoan ngoãn, con cũng xin cho bác Ba nữa đó.
Nghe câu nói đơn sơ, chân thật như thế của đứa bé
lên bốn, ai mà chẳng vui lòng. Huống chi Chúa của mình yêu trẻ nhỏ, chắc còn
vui nhiều hơn nữa. Trâm mỉm cười, lại nghĩ về cha. Bạn bè cô ai cũng bảo cha
khó tính theo kiểu phong kiến. Khó thế để mấy đứa con nên người. Chín đứa con,
người đi tu, người lập gia đình, làm ăn xa nhà, chẳng còn ai ở cùng cha mẹ. Cô
là gái út, đến tuổi trưởng thành, cũng rời xa cha mẹ để bắt đầu cuộc sống mới.
Năm năm rồi, cha sống chung cùng những cơn đau của thân xác. Thế mà chẳng bao
giờ cô nghe một lời than vãn hay thấy một cái nhăn mặt. Trong hoài niệm về cha,
đó là nụ cười ấm áp, dịu hiền, là ánh mắt đầy hi vọng giúp cô vượt qua bao thử
thách của cuộc sống. Người ta bảo cha là “thánh sống”, đáng nể biết bao. Mỗi
lần có ai hỏi thăm về sức khỏe, cha bảo: “Tất cả là hồng ân. Thánh giá Chúa
trao thì Người sẽ nâng đỡ cho ta được nhẹ nhàng. Chúa chẳng bao giờ giao cho ta
điều gì vượt quá sức đâu.” Cha đón nhận như một món quà của tình Chúa bao la và
sống với niềm tin phó thác. Kể từ ngày tai nạn, sức khỏe của cha giảm đi nhiều.
Bệnh viện khắp Bắc, Trung, Nam không đâu chữa lành được. Thời gian đầu, cha
phải nằm một chỗ, phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác. Rồi Chúa thương cho
cha đi lại được dù phải nhờ tới anh gậy bốn chấu hỗ trợ. Cha cô thích được tự làm mọi việc.
Quãng thời gian vất vả kia lại trở thành cơ hội để chứng tỏ lòng mến và niềm
cậy trông vào Chúa. Cô nghe anh trai kể, nhiều đêm đau quá, cha không ngủ được,
mỗi lần anh tỉnh giấc lại thấy cha ngồi cầm tràng chuỗi trên tay đọc kinh. Nghĩ
mà thương cha quá! Trong tâm trí cô lúc này là bóng dáng khập khiễng cùng cây
gậy, bên cạnh là mẹ đang tiến về ngôi thánh đường dấu yêu!
Trâm giật mình. “Ba giờ rồi. Mình lần chuỗi Thương
xót hiệp ý cùng cha mẹ ở nhà thôi!”
Mã số: 16-056
THA THỨ VÔ HẠN
Beng…beng…beng…
Chuông đồng hồ phía cuối giáo đường điểm chín
tiếng. Đêm đã về khuya. Màn đêm buông dày đặc. Tiếng ếch nhái, côn trùng kêu rỉ
rả. Chàng thanh niên u hoài thả bước về phía tòa giải tội.
Không biết đây là lần thứ bao nhiêu anh vào tòa
cáo giải?! Vẫn vị linh mục già; vẫn tấm phên gỗ đen cũ kỹ…Và anh vẫn xưng cũng
tội này. Lòng anh nặng trĩu. Anh lo sợ.
……
Vài phút trôi qua trong lặng lẽ. Bỗng tiếng vị
linh mục la lên tức tối, xé tan màn đêm tịch mịch: “Không!Tôi không tha thứ cho
anh thêm một lần nào nữa. Anh ra khỏi đây ngay. Đi đi..!”
Nói rồi, vị linh mục đứng phắt dậy, xăm xăm bước
đi, bỏ lại mình anh với phên tòa đen đúa. Chàng thanh niên cúi đầu và những
giọt nước mắt lặng rơi.
Bỗng từ trên vách tường loang lổ, Tượng Chịu Nạn
như bắt đầu cử động, quằn quại và đau đớn. Một cánh tay rớt khỏi dấu đinh,
thõng xuống trên đầu chàng thanh niên, và anh nghe một giọng nói rất ấm: “Ta
tha tội cho con. Con hãy về bình an và đừng phạm tội nữa[1]
”. Rồi cũng giọng nói ấy hướng về phía vị linh mục: “Ngươi chẳng hy sinh cho
người này nên ngươi chẳng có gì để mất. Còn Ta, Ta đã chết cho anh nên lòng Ta
rất xót xa. Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội
lỗi sám hối ăn năn [2]”.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại bằng một tình
yêu không biên giới, đến độ “hiến mạng sống vì bạn hữu của mình[3] ”.
Mã số: 16-057
CẦM
Trên trần gian nghệ thuật được phân làm bốn loại:
cầm - kỳ - thi - họa. Để ca tụng Chúa trên trần gian này riêng bộ môn “cầm”
cũng đã được chia ra làm rất nhiều loại như: nhạc sỹ, ca sỹ, ca trưởng, ca
đoàn, ca viên, nhạc công… Còn về dụng cụ
phát ra tiếng nhạc cũng có rất nhiều loại: đàn piano, đàn tranh, đàn hạc, đàn
bầu, đàn đá, đàn guita, đàn organ, đàn violon, đàn tỳ bà, sáo trúc, đàn nhị,
đàn cò, đàn bầu, trống, chiêng, kèn…
Trong một ca đoàn nọ của một giáo xứ có bốn người
gồm một ca trưởng, một nhạc sỹ, một nhạc công, một ca viên cùng qua đời vì bệnh
tật trong cùng một năm. Bốn người này đều là những người công chính và sống
đúng luật mến Chúa yêu người như Chúa đã dạy. Các linh hồn này đều lên tới
thiên đàng và Chúa hỏi cả bốn người: “Trong các con ai là người mến Chúa yêu
người nhất và làm được những gì để lập công phúc ở trần gian?”.
Người ca trưởng hiên ngang bước ra trước và thưa
với Chúa: “Lạy Chúa, con là ca trưởng, trong mỗi thánh lễ con đã dùng hết tài
năng của mình mà điều khiển ca viên lẫn nhạc công để dâng lên Chúa những bài
hát mà nhạc sỹ sáng tác nên con là người có công nhất trong ca đoàn. Vậy con
xin dâng lên Chúa tất cả khó nhọc của cuộc đời con, mong Chúa thương nhận và
cho con được hưởng nhan thánh Chúa trước hết ạ!”.
Lúc này người nhạc sỹ nghe vậy liền thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, con là một nhạc sỹ chuyên sáng tác những khúc nhạc hay để tôn vinh
Thiên Chúa, nếu không có con thì ca trưởng, nhạc công, ca viên chẳng có những
bài hát hay để dâng lên Chúa đâu, vậy xin Chúa hãy cho con được hưởng nhan
thánh Chúa đời đời trước tiên”.
Chúa nghe xong cũng ầm ừ và bảo: “Hai con đều có
công lao rất lớn, nhưng đối với ta những lời các con ca ngợi không thêm gì cho
ta hết, nhưng ta rất vui lòng khi nhận những công lao khó nhọc của hai con
trong suốt cuộc đời trần gian. Vậy còn nhạc công và ca viên thì sao, các con đã
làm gì để mến Chúa yêu người?”
Lúc bấy giờ nhạc công mới thưa: “Lạy Chúa, con đã
bỏ ra rất nhiều thời gian để học đàn organ và không có con thì ca đoàn không có
những tiếng đàn du dương để dâng lên Chúa trong các thánh lễ, và thánh lễ chỉ
có những tiếng ngân nga buồn tẻ mà thôi Chúa ơi, cả cuộc đời con, con đã dâng
tiếng đàn là công sức của con dâng lên Chúa, xin Chúa hãy thương nhận và cho
con được vào hưởng nhan thánh Chúa”.
Chúa nghe xong cũng gật gù và phán: “Con cũng thật
là một người không thể thiếu trong ca đoàn, tiếng đàn của con cũng đã vang lên
đến tai ta, và ta cũng rất hài lòng lắng nghe tiếng đàn của con dâng lên trong
các thánh lễ, nhưng các thiên thần trên thiên đàng đàn hay hơn con rất nhiều”.
Sau đó Chúa quay sang hỏi người cuối cùng: “Còn ca viên, con đã làm gì để được
coi là mến Chúa yêu người?”.
Lúc này ca viên mới lặng lẽ khiếm tốn thưa: “Con
chẳng có gì để dâng lên Chúa, con chỉ biết cám ơn Chúa đã ban tài năng cho các
nhạc sỹ, ca trưởng, nhạc công để con có những bài hát hay, những ngày luyện tập
kiên trì, những tiếng nhạc êm dịu để dâng lên Chúa. Con không phải là nhân vật
quan trọng trong ca đoàn, nhưng con ca ngợi Chúa với tất cả lòng thành của con
dâng lên Chúa trong mỗi thánh lễ, đồng thời con cũng yêu mến các ca viên trong
ca đoàn như lời Chúa dạy bằng cách quan tâm hỏi han các bạn vắng mặt trong mỗi
ngày đi hát hoặc đi tập. Con chỉ có món quà nhỏ bé đó để dâng lên Chúa mà thôi.
Con xin lỗi Chúa vì con không có tài năng như ca trưởng, nhạc sỹ, nhạc công. Và
con xin hết lòng cám ơn những người tài giỏi do Chúa thương ban, để con có
những ngày tập luyện gian khổ, những ca khúc hay, những tiếng đàn du dương để
dâng lên Chúa. Con tạ ơn Chúa vì tất cả”.
Chúa nghe xong liền phán: “Tất cả các con đều đẹp
lòng ta, nhưng lời ca viên nói làm ta vui lòng hơn cả. Vì tài năng ta ban cho
mỗi người khác nhau, không phải tự sức các con có thể làm được những điều đó,
mà là do ơn của ta ban cho các con khi các con còn sống trên trần thế. Phần
thưởng của các con đều là một đồng như nhau. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ
lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót, nên những ai càng
khiêm nhường ta càng yêu mến”.
Và tất cả nhạc sỹ, ca trưởng, nhạc công, ca viên
đều được lên Thiên đàng, nhưng người được đẹp lòng Chúa hơn cả là ca viên, vì
Những lời của ca viên là những lời trong tấm lòng khiêm nhường tận đáy lòng như
lời Chúa phán xưa: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong
lòng”.
Lòng khiêm nhường và biết ơn là điều Chúa cần nhất
khi con người sống ở trần gian này. Không có gì mà Chúa không biết và quan
phòng cho từng người chúng ta, tất cả đều là tình thương của Chúa ban tài năng
cho chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Chúa và đem ra phục vụ lợi ích cho mọi người
theo như luật Chúa dạy là: “Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như mình ta
vậy”. Đó là thước đo để con người có thể vào thiên quốc hay không.
Cám ơn Chúa đã cho con có trí óc để con có thể
viết ra những dòng này mà ca ngợi kỳ công của Chúa trên trần gian này.
Mã số: 16-059
NGÓNG CON
Đã tròn năm tháng kể từ ngày Vinh đặt chân lên cao
nguyên Gia Lai. Mùa này cà phê trên những khu vườn bạt ngàn đã bắt đầu chín rộ.
Nhờ đó mà Vinh cũng nhanh chóng tìm được việc làm, qua Thắng giới thiệu. Thắng
hơn Vinh ba tuổi, ở cùng làng, nhưng ở nhà hai đứa thường xưng hô ngang hàng là
mày- tao. Vinh xin ở cùng Thắng, hai đứa đi làm thuê cho một xưởng thu mua cà
phê cách nhà trọ khoảng mười lăm cây. Thắng thì đã quen công việc. Hết lớp
chín, vì nhà nghèo, cha mất sớm nên cậu phải bỏ học vào miền Nam tìm việc kiếm
tiền về xây nhà, nuôi mẹ và hai đứa em. Còn Vinh được sinh ra trong một gia
đình khá giả hơn, điều kiện vật chất khá đầy đủ. Cậu lại là con một nên được
cha mẹ chiều chuộng, tạo mọi điều kiện để học tập cho tốt. Năm nay Vinh đã lên
lớp mười hai, nhưng thay vì chăm chỉ học tập như mọi năm, cậu lại theo đám bạn
xấu bỏ học, chơi bời suốt ngày. Hai tháng trước, Vinh chơi game thua tiền, cậu
đánh cắp chiếc nhẫn cưới bằng vàng của mẹ cậu đem đi bán. Bị phát hiện, cha cậu
cho cậu một trận tơi bời, còn mẹ, bao nỗi uất giận kể từ ngày đứa con trai duy
nhất đâm ra hư hỏng, bấy lâu kìm nén trong lòng, thì nay bùng ra. Bà la lối đứa
con bằng những lời nặng nề, chua chát.
Vinh giận dỗi, bỏ nhà đi. Cậu ra đường, vớ được
cái xe đang dừng bắt khách, thế là nhảy lên, không thèm quan tâm đây là xe chạy
tuyến Hà Tĩnh- Gia Lai. Thôi kệ, đến đâu thì đến, trước mắt là cứ đi cho bõ
tức, rồi sau đó kiếm việc gì làm ăn qua ngày. Cậu nghĩ mọi thứ sẽ đơn giản.
Nhưng đến bến xe còn bơ vơ không biết về hướng nào, thì một nhóm côn đồ đã xông
vào đánh đập để cướp tiền, vì tưởng cậu là người giàu có. Rất may, vừa lúc đó,
Thắng chở bác chủ nhà trọ ra bến xe về quê, nhìn thấy và đưa cậu về nhà.
Hàng ngày, Thắng và Vinh phải dậy sớm, vào làng,
đến từng nhà để thu cà phê, đóng bì và bốc vác lên xe chở về, để kịp nắng lên
thì phải phơi hết số cà phê tươi đã thu mua. Vinh lần đầu tiên được nhìn thấy
tận mắt thứ quả mà cậu đã thấy nhiều trong sách vở và truyền hình, thì thích
lắm, nhưng khi bắt đầu công việc thì rất khó khăn. Hồi còn ở nhà có bao giờ cậu
phải bốc vác gì nặng nhọc đâu, có bao giờ phải đội nắng để phơi nông sản đâu.
Cậu bắt đầu nuối tiếc những ngày đi học nhàn hạ, về nhà đã có mẹ nấu ăn bồi
dưỡng, cơm nước đến tận miệng. Nhưng làm sao được, đã đâm lao thì phải theo
lao. Cậu quyết tâm không trở về cho đến khi cha mẹ cậu đem xe đến rước. Rồi
ngày qua ngày, Vinh cũng phải thích nghi với công việc chẳng mấy dễ chịu này.
- Này, chiều mình xin ông chủ về sớm hơn cho kịp
đi lễ Chúa nhật. Chỉ còn có một lễ Thiếu nhi Thánh Thể lúc 5 giờ thôi đấy.
- Chiều xong việc, tao ở nhà ngủ một giấc, mệt lắm
rồi. Mày đi lễ thì đi đi, lễ lạc gì. Tao chẳng cần tin nữa. Nếu có Chúa thì tao
đã chẳng nên nông nỗi này. – Vinh đáp lời Thắng.
- Ơ cái thằng này ăn nói hay nhỉ. Lễ Chúa nhật mà
không đi. Mày có phải người có đạo nữa không đấy?
- Có đạo thì để làm gì cơ chứ? Để phải gò bó trong
những luật lệ khó chịu, phải đi học giáo lý. Ông bà, cha mẹ tao vì có đạo nên
mới cảm thấy việc tao bỏ học, chơi game là bất thường; còn tao, như vậy mới tự
do, mới thỏa thích…
- Im đi! – Vinh nói chưa dứt lời, Thắng đã cắt
câu. -Tao không cho phép mày ăn nói như vậy. Thôi kệ, mày thích làm gì kệ mày.
Mày nói không sai, nếu có Chúa thì mày đã chẳng nên nông nỗi này. Nhưng không
phải là không có Chúa, mà là tự mày đã đuổi Chúa đi.
Chiều tối hôm đó, Thắng đi lễ một mình, còn Vinh ở
nhà nằm dài một giấc…
Sáng hôm sau, hai đứa lại vào làng từ tảng sáng.
Cà phê hôm nay đã chín nhiều hơn, quả đen hái không kịp rơi rụng ngổn ngang
xuống đất. Vinh làm việc mà chỉ mong mua được ít hàng, để đỡ phải bốc vác và
phơi khén. Trái lại, Thắng rất mừng khi thấy nhiều nông sản, vì lương cậu nhận
được sẽ tỉ lệ thuận với sản lượng làm việc. Đang vác bì cà phê trên vai, thì có
một cuộc điện thoại gọi đến. Cậu thả bì cà phê xuống, nhấc điện thoại lên. Là
cuộc gọi của Nhu, người bạn Thắng mới quen vài tháng. Nhu là một cô giáo ở miền
khác đến, dạy chữ cho các em đồng bào trong nhà nội trú của các Soeurs Dòng
Phao-lô. Nhu cũng hay đi lễ Thiếu nhi Thánh Thể chiều Chúa nhật, và gặp Thắng
nhiều lần, rồi họ quen nhau.
- Thắng ơi, tuần này giáo xứ có tĩnh tâm để chuẩn
bị mừng 50 năm thành lập. Nếu cậu đi làm về kịp thì đi lễ tối rồi nghe cha
giảng tĩnh tâm luôn.
- Ừ, cảm ơn Nhu. Tớ sẽ cố gắng thu xếp công việc,
rồi rủ đứa cùng phòng đi nữa.
- Thế nhé, Chúa ở cùng cậu nghen.
- Cảm ơn Nhu, bye!
Thắng lại tiếp tục công việc, vác bì cà phê bốc
lên xe.
Hôm nay, Thắng làm việc cật lực hơn để hoàn thành
công việc sớm, và xin ông chủ cho mình và Vinh về trước.
- Này Vinh, về đi tĩnh tâm nghen.
- Tĩnh tâm cái gì?
- Giáo xứ Đức An đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm
thành lập giáo xứ. Cha sở mời các cha Dòng Chúa Cứu Thế về giảng tĩnh tâm đấy.
Nhanh đi.
- Đi làm gì? Tao có phải chiên xứ này đâu, ông anh
bạn thân mến.
- Tao thấy mày bất trị rồi đấy. Chắc là tâm mày
lâu nay động lắm rồi, đi nghe giảng cho nó tĩnh lại.
- Chúc ông anh tĩnh tâm vui vẻ nghen. Tao ở nhà
nằm ngủ thôi. Giờ đối với tao, giấc ngủ là thuốc bổ an toàn nhất, chẳng phải
mệt nhọc làm việc, hay suy nghĩ mà đâm ra tức tối.
Sau một tuần giảng tĩnh tâm, cha xứ tổ chức một
ngày hòa giải. Cha mời các Linh mục trong khu vực về giải tội cho toàn giáo
dân, nhờ các Soeurs từ các cộng đoàn phục vụ tại giáo xứ đến để giúp chiên lạc
xét mình. Hôm đó, hai cậu vẫn tiếp tục vào làng thu mua cà phê, nhưng chẳng có
bì nào. Hỏi ra mới biết mấy bữa nay trong làng có lễ hội nên tất cả nghỉ làm
việc, và hôm nay không có nông sản tươi để bán. Vinh mừng rỡ, đó là điều dễ
hiểu với một cậu bé không muốn làm việc. Nhưng Thắng cũng mừng, khác với những
ngày thường khác, vì nhờ đó cậu sẽ được về nhà thờ để đi xưng tội.
- Hôm nay nghỉ việc, mày chở tao qua nhà thờ luôn.
Có nghi thức sám hối và giải tội cả ngày đấy.
Bữa nay Vinh không thèm cãi tay đôi với Thắng nữa.
Cậu không có ý định đi xưng tội, nhưng cũng đồng ý đi cùng Thắng đến nhà thờ.
Vì dù sao cậu phải đi nhờ xe máy của Thắng, vả lại, coi như là đi tham quan cho
biết đây biết đó.
Trời càng về chiều càng nhạt dần màu nắng. Mặt
trời không còn gay gắt, chói lọi khủng khiếp như những buổi trưa thiêu đốt
ngoài trời. Trong nhà thờ, có nhiều người đang ngồi thinh lặng, cúi đầu trước
Mình Thánh Chúa. Tòa giải tội đặt ở nhiều góc, có nhiều cha ngồi tòa. Ánh nắng
chiều tuy không chói chang nhưng len lỏi xuyên thấu các ô cửa kính màu, làm cho
ngôi thánh đường càng trở nên huyền linh, tĩnh mịch.
Dừng xe nơi bãi đậu, Thắng khuyên Vinh vào xưng
tội, vì đây là một dịp quan trọng, nhưng Vinh vẫn không thèm đếm xỉa đến. Cậu
bỏ đi ra phía trước nhà thờ, để mặc Thắng bước vào phòng xét mình trong thái độ
buồn bã, vì không thuyết phục được cậu.
Lần đầu tiên Vinh đến một ngôi nhà thờ ở Tây
Nguyên. Trong khuôn viên nhà thờ xứ, xen lẫn với những cây xà cừ cổ thụ, có
nhiều tượng gỗ thô sơ được đục trên thân cây, hình thù như con khỉ ở rừng. Sau
mỗi bức tượng đó đều có những tấm bảng chú thích. Vinh rảo qua một lượt. Nào là
một thân gỗ đẽo hình ba con khỉ đang đăm chiêu suy nghĩ với chú thích nói về ý
nghĩa tôn giáo. Nào là hình người cầm chìa khóa, được giới thiệu là Thánh
Phê-rô Tông Đồ; và đối diện là tượng thánh Phao-lô cầm mấy lá thư; rồi cạnh bên
là hình Bok Kiêm và Thầy Sáu Do kết nghĩa anh em.
Vinh nhìn xa hơn, và cậu bị cuốn hút bởi một bức
tượng được đặt ngay trước sảnh, nơi cửa bước vào nhà thờ. Nhìn xa như một người
chống gậy đứng ăn xin. Cậu tò mò, bức tượng sao lạ quá! Vinh tiến lại gần bức
tượng. Hình như không phải là một người hành khất, mà rõ ràng là một cụ già
chống gậy lom khom với tư thế sẵn sàng để đi, ánh nhìn xa xăm. Bức tượng được
đẽo gọt thô sơ trên thân cây gỗ thông, càng làm lộ lên vẻ xót xa, tội nghiệp
của người đang khắc khoải, mong chờ một điều gì đó. Ánh mắt của cụ già tượng gỗ
như xuyên thủng vào đôi mắt của Vinh, làm cậu ứa lệ. Cậu nhìn và đọc bảng chú
thích, một tấm bảng hình vuông với dòng chữ:
“NGÓNG CON
Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy.
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20).
Vinh ngậm ngùi. Cậu bị đánh động bởi tấm bảng đó,
nhưng rồi những hình ảnh đòn roi và lời mắng nhiếc của cha mẹ ngày xưa cứ ám
ảnh cậu. Trong người Vinh có sự giằng co mãnh liệt. Cha mẹ yêu thương hay ghét
mình? Những đòn roi đánh vào cậu là vì yêu con hay vì trút giận? Và như được
Chúa soi sáng, cậu lại nhìn lên tấm bảng rồi nhớ lại những bài học giáo lý hồi
xưa. Cha xứ từng giảng rằng: “Giả như cha mẹ có lúc ghét con, thì Thiên Chúa
vẫn luôn luôn yêu thương con”. Vinh hét lên: “Trời ơi, cha ơi!” . Rồi cậu òa
khóc.
Chạy vào sụp gối một góc trong nhà thờ, Vinh nức
nở. Cậu thưa cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội. Con
biết rằng Ngài là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đang mong con trở về, nhưng
tại sao con lại cố chấp. Và có lẽ, giờ này ở nhà, cha mẹ cũng đang ngóng
con...”.
Từ phòng xét mình bước vào nhà thờ, Thắng nhìn
thấy người bạn mình đang quỳ gối bên tòa giải tội. Cậu mừng rỡ cám ơn Chúa: “
Lạy Chúa, tạ ơn Ngài, vì chỉ có Lòng Thương Xót của Ngài mới có thể chạm đến và
làm biến đổi quả tim của người bạn con”.
Buổi tối hôm ấy, hai đứa về nhà nấu bữa cơm và ăn
mừng vui vẻ.
- Việc đền tội của mày là gì vậy?- Thắng hỏi.
- Đọc Tin Mừng Luca chương 15. Tao cảm thấy đoạn
Tin Mừng ấy như viết riêng cho tao vậy. Còn mày?
- Của tao, cha giao một tuần lễ sáng. Cũng được.
Tập dậy đi lễ sáng cho quen. Hồi bé tí ở nhà, có bao giờ bỏ lễ sáng đâu, mà đi
làm rồi thì biếng nhác.
- Ừ, đi lễ sáng một tuần đền tội cho mày, rồi cứ
tiếp tục đi đền tội cho tao với. Cảm ơn mày những ngày qua đã thương và giúp đỡ
tao. Tao nghĩ kĩ rồi. Giờ này chắc là bố mẹ tao cũng đang “ngóng con” từng
ngày. Tuần tới tao sẽ về nhà, tiếp tục học hành.
- Mày suy nghĩ kĩ rồi chứ? Lên đây mới bắt đầu
quen việc. Có mày tao cũng đỡ buồn hơn. Nhưng mày quyết định như thế là đúng
đắn hơn cả. Cầu chúc mày về bình an. Cho tao gửi lời hỏi thăm gia đình mày, gia
đình tao và quê hương làng xóm. Đợi Tết tao về luôn.
Vinh trở về gia đình kịp giờ cơm tối. Nhìn cha mẹ
cậu có vẻ xanh xao và gầy ốm hơn chút xíu. Bàn ăn vẫn luôn dọn cho ba người, vì
mẹ cậu nói cha mẹ luôn mong một ngày nào đó cậu về ăn bữa cơm gia đình ấm cúng.
Phòng ngủ của cậu cũng sạch sẽ, ngăn nắp và sách vở đã sẵn sàng để cậu bắt đầu
tiếp tục học hành.
***
Ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội năm nay cũng là
ngày khai mạc Năm thánh Lòng Chúa Thương
Xót. Trong bài giảng lễ, cha xứ mời Vinh lên chia sẻ kinh nghiệm trở về của
mình: “Lòng Thương Xót của Chúa Cha đã chạm đến quả tim chai lì đầy tính tự ái
của con, và dẫn con về nhà bình an. Về đến nhà, con mới cảm nghiệm được rằng
cha mẹ vẫn yêu thương và ngóng con về từng ngày, thì Thiên Chúa cũng vui biết
mấy khi các tội nhân trở về với Ngài từng phút giây”.
Đó cũng là ngày Vinh xin gia nhập nhóm dự tu của
giáo xứ. Cậu nuôi dưỡng ước mơ làm Linh mục để có thể thực thi Lòng Thương Xót
của Chúa một cách hữu hiệu hơn, để đi tìm nhiều con chiên lạc về với Chúa nơi
Bí tích Hòa giải.
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ tư - 2016
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa
& Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm
400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo
cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng
thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu
(2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành cho những người
đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong
cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ
rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã
hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá
3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo,
website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ
xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại
theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp
theo.
5. Đề tài: đợt này cuộc thi ưu tiên nhấn mạnh hai
đề tài: Lòng Chúa thương xót – Việc thờ cúng tổ tiên nơi người Công giáo Việt
Nam – Trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên (theo thông điệp Laudato Si’ của Đức
Thánh Cha Phanxicô); tuy nhiên vẫn nhận cả những bài viết ngoài hai đề tài ấy,
miễn là có nội dung Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05
bài dự thi, có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi
attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu
điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút
danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số
điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài
đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ
dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi
đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện
chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm.
Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng
chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày
15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt
giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên
trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển
tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải
triển vọng.:
- một giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12.000.000 $VN
- ba giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt
giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất
bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô
giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ
được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những
tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được
nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt
được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1.
Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến
như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ
trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự
thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu
niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu
chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các
ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ
Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại:
0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2015
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui
Nhơn