LỄ PHỤC SINH 2014
ĐÓN NHẬN TIN VUI PHỤC SINH
Thưa quý OBACE,
Chúng ta đang cùng với Giáo Hội long trọng cử hành mầu nhiệm Chúa Phục sinh, là một trong những mầu nhiệm cốt lõi của đức tin Kitô Giáo. Tuy nhiên đối với nhiều người, thì việc Chúa sống lại từ cõi chết vẫn là điều khó chấp nhận, dù trong cuộc sống họ cũng đã nghe có những người hồi sinh. Còn đối với người Kitô hữu để đón nhận được mầu nhiệm lớn lao này cần phải có sự trợ giúp đặc biệt của ơn Chúa và thái độ khiêm nhường đón nhận của mỗi người. Đó là điều mà tác giả Tin Mừng Gioan đã kinh nghiệm và đã kể lại cho chúng ta.
Mặc dù khi còn ở với các tông đồ, Chúa Giêsu đã nói trước nhiều lần về việc Ngài bị bắt, bị giết và sẽ chỗi dậy vào ngày thứ ba, nhưng khi sự kiện xảy ra thì hầu như các tông đồ không hề nhớ gì đến những điều Chúa đã nói, và bởi vì chứng kiến cái chết kinh hoàng của Chúa và sự xôn xao của thành Giêrusalem về cái chết của thầy Giêsu, khiến các tông đồ vô cùng hoảng loạn sợ hãi, bóng tối của sợ hãi bao trùm cuộc sống khiến cho các tông đồ dường như tê liệt. Câu chuyện cho thấy hai nhóm người đầu tiên được chứng kiến ngôi mộ trống thì họ đã có những phản ứng khác nhau.
Trước hết là nhóm các phụ nữ - Thánh Gioan nhấn mạnh chi tiết : “Vào sáng sớm khi trời còn tối, bà Maria Madala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã bị lăn ra khỏi mồ”. Lúc này trời còn tối, trời tối không chỉ tối về không gian, mà bầu trời trong tâm hồn của các phụ nữ này cũng đang bị màn tối che phủ, đó là sự tối tăm của sợ hãi, các bà không còn chút hy vọng, các bà chỉ tìm kiếm một Đức Giêsu đã chết và cần được tẩm liệm theo đúng tập tục. Chính vì thế, khi thấy ngôi mồ trống, các bà đã không thể nghĩ được gì khác hơn, không thể nhớ lời Chúa Giêsu đã nói về việc phục sinh của Ngài, các bà chạy về báo tin cho các môn đệ: “Người ta đã lấy mất xác Chúa khỏi mộ rồi và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Nhóm thứ hai chạy ra mộ đó là Phêrô và Gioan. Tại sao trước một tin “động trời” như thế mà chỉ có hai ông này đứng dậy chay ra mộ? Chắc hẳn cũng không hơn gì các phụ nữ, các tông đồ khác đang bị cái chết của Chúa ám ảnh khiến các ông còn sống mà như đã chết, không thể di chuyển được nữa, nên chỉ có hai ông Phêrô - người môn đệ yêu Chúa nhất và Gioan - người môn đệ được Chúa yêu nhất chạy ra mộ. Chính tình yêu đã thúc đẩy hai ông chỗi dậy và cũng chính tình yêu đã đưa hai ông chạy đến ngôi mộ và đã tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa khi thấy những dấu vết còn lại. Gioan đã đến trước, ông không chỉ đến trước tính theo thời gian, mà ông còn đến trước trong đức tin khi “ông cúi xuống để nhìn vào mộ, ông thấy những băng vải còn ở đó”. Ông đã cúi đầu trước mầu nhiệm tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, vì đức tin không thể được ban cho những người đứng thẳng trong cao ngạo, mà cần phải có một thái độ khiêm tốn đón nhận, và cúi đầu trước quyền năng của Thiên Chúa.
Gioan đã không bước vào mộ trước, ông đã chờ đợi Phêrô đến và ông theo sau Phêrô để bước vào khám phá ngôi mộ trống. Thái độ này của Gioan cho thấy sự tôn trọng của ông dành cho Phêrô là anh cả của các tông đồ và là thủ lãnh Giáo Hội, là người có tiếng nói chung cuộc. Vì thế trong mầu nhiệm Phục Sinh, thái độ cần có đó là: bước theo Phêrô tức là bước theo sự hướng dẫn của Giáo Hội. Phêrô đã bước vào, đã thấy những băng vải được xếp gọn gàng, khăn che đầu được gấp lại và để riêng một chỗ. Cả hai ông thấy những dấu vết này thì các ông đã tin không chút nghi ngờ: Chúa đã sống lại thật rồi.
Tác giả Tin Mừng cho thấy, sở dĩ hai ông và các tông đồ khác rơi vào hoảng loạn sợ hãi trước cái chết của Chúa là bởi vì các ông đã chưa tin vào lời Kinh Thánh, vì theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Như thế để đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh thì điều hết sức quan trọng đó là phải tin vào Kinh Thánh, vì Kinh Thánh đã nói về Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa và nói về cái chết cùng sự phục sinh của Ngài. Tin vào Kinh Thánh là tin vào Đức Giêsu và những lời giảng dạy của ngài, cùng thực hành những huấn lệnh của Ngài, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng đón nhận được tin vui phục sinh của ngài.
Chính vì đã có một cảm nghiệm sâu xa về biến cố phục sinh và tin tưởng một cách mạnh mẽ, chắc chắn vào lời Kinh Thánh cùng những lời chứng của Giáo hội, mà các tông đã là những con người đầu tiên được biến đổi để trở thành những người làm chứng về Chúa Giêsu phục sinh. Sách Công Vụ tông đồ là cuốn sách thuật lại các hoạt động của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô cho thấy chính niềm tin vào Chúa Phục sinh đã là sức mạnh thúc đẩy các ông miệt mài rao giảng cho mọi người về Chúa Giêsu và sự phục sinh của Ngài. Với các tông đồ lúc này, các ông đã đi đến một xác tín mạnh mẽ: Đức Giêsu, Đấng mà các ông đã cùng sống, cùng ăn, cùng ngủ, cùng đồng bàn chính là Thiên Chúa, là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, đã chết nay đã sống lại và đang sống.
Trong bài giảng tại nhà ông Cornêliô, chúng ta có thể thấy một Phêrô hoàn toàn khác, không phải là một phêrô nhát sợ chối Thầy ba lần như hôm trước nữa, mà là một Phêrô mạnh mẽ hiên ngang, mạnh dạn nói về Đức Giêsu “Đấng đã đến thế gian, đã rao giảng Tin Mừng, đã bị người Do Thái bắt và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại và hiện ra trước mặt những người mà Ngài đã tuyển chọn” và hôm nay Phêrô đã làm chứng: “Chúng tôi đã được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại” và chính Ngài đã truyền cho các ông phải ra đi để làm chứng cho mọi người biết điều này. Sở dĩ có sự thay đổi lạ lùng này nơi các tông đồ là nhờ chính Đấng Phục Sinh. Khi đã nhận biết và tin vào Người thì Người sẽ biến đổi những kẻ tin và lôi kéo họ về phía Thiên Chúa, để chúng ta không còn bị trói buộc bởi ma quỷ thế gian và xác thịt nữa, vì Chính Đức Giêsu Kitô đã thông truyền cho mọi người tin sức mạnh của Người.
Chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ, chúng ta không được diễm phúc chạy ra để nhìn xem ngôi mồ trống, nhưng chúng ta vần có thể thấy Đức Giêsu Phục sinh và tin vào Người nhờ tình yêu, nhờ ơn đức tin Người ban tặng cho chúng ta và nhờ lời chứng của Giáo Hội đã để lại cho chúng ta.
Nếu như ngày xưa Phêrô và Gioan đã tin vào Đức Giêsu và mầu nhiệm phục sinh, là vì các ông là những người yêu Chúa và là những người được Chúa yêu, thì ngày hôm nay, nhờ Chúa yêu và nhờ việc đáp lại tình yêu của Chúa, chúng ta cũng sẽ có thể đón nhận được mầu nhiệm lớn lao này vào trong cuộc đời của mình, Chúa phục sinh sẽ củng cố đức tin cho chúng ta, với điều kiện chúng ta biết khiêm tốn đón nhận sự chỉ dạy của Ngài.
Để đón nhận được mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta còn cần phải ngoan ngoãn vâng theo lời chỉ dạy của Giáo Hội, hãy có thái độ khiêm nhường như Gioan, hãy bước theo sau những lời dạy và lời chứng của Giáo Hội. Đừng bao giờ đi ra ngoài sự chỉ dạy của Giáo Hội, và cũng đừng kiêu căng cho mình khôn ngoan hơn Giáo Hội và đừng muốn đi trước Giáo Hội, nhưng hãy khiêm tốn để đón nhận sự dạy bảo của giáo Hội, vì giáo Hội là Mẹ, là Thầy của chúng ta trong đức tin, và Giáo Hội đang từng ngày trình bày đức tin cho chúng ta, nuôi dưỡng đức tin của chúng ta bằng Lời Chúa và bằng các Bí tích mà Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội.
Sau cùng để đi đến xác tín sâu xa trong đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh, thì cần phải thường xuyên đọc và suy gẫm lời Kinh Thánh. Đừng bao giờ cho rằng Kinh Thánh là cuốn sách lỗi thời, và cũng đừng bao giờ nghĩ rằng Kinh Thánh chỉ dành cho một số người nào đó, nhưng trái lại hãy siêng năng đọc và lắng nghe lời Kinh Thánh mỗi ngày trong thánh lễ, trong các giờ kinh gia đình, hãy để cho lời Kinh Thánh uốn nắn và sửa dạy đời sống chúng ta, hãy để cho lời Kinh Thánh trở thành người bạn đồng hành và dẫn đường trong hành trình đức tin và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Vì Kinh Thánh chính là Lời của Chúa, lời có sức cứu độ, thánh hóa và biến đổi chúng ta.
Mừng lễ Chúa Phục Sinh hôm nay, xin cho niềm tin này ngày càng trở nên vững mạnh trong cuộc đời mỗi tín hữu và biến đổi chúng ta nên những nhân chứng sống động cho mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa qua gương mặt, qua đời sống vui tươi và hy vọng của mỗi chúng ta, để mỗi người khi gặp gỡ tiếp xúc với chúng ta họ có thể cảm nhận được Đấng Phục sinh đang hiện diện và chi phối cuộc đời chúng ta. Amen.
Lm. Giuse. Đỗ Đức Trí
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. Lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mộ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gio-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mộ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã có thể tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mộ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mộ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN: VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ thiện chí của họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các tông đồ quên thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).
- LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA THỨ VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).
Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
- GIÁ TRị CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su “sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù”. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng tín thác vào Chúa, Người sẽ kíp thời ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM