CHÚA LÀ PHẦN GIA NGHIỆP CỦA CON
Thánh Paulinô, giám mục thành Nôla
(357-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã
sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh, sau làm giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng
xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người
nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài
không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân của minh, đi làm nô lệ
thay cho con trai của một bà goá, và bị điệu sang Phi châu.
Mãi lâu sau, ngài mới được trả tự do
và trở về giáo phận Nôla trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ai cũng khao khát được tự do. Có người
đi tìm cảm giác tự do trong sức mạnh của tiền bạc, người khác thấy trong chức
quyền, trong sự thoả mãn những đam mê xác thịt. Nhưng càng đuổi bắt tự do, người
ta lại càng ràng buộc chính mình vào những điều không phải là mình.
Chỉ cần thẳng thắn nhìn lại chính
mình, ai cũng có thể thấy ngay sự ràng buộc đó: trong cuộc sống thường nhật có
nhiều thay đổi, những thay đổi nào làm cho tôi thấy đau khổ, mất mát nhất? Tuổi
tác, sức khoẻ, tiền tài, chức vị, khoái lạc, công việc, bạn bè, tình duyên … ?
Có những người tự vẫn khi thất tình,
thi rớt, phá sản … Đó là những người thật đáng thương vì cuộc sống họ chịu ràng
buộc quá mạnh vào những yếu tố dễ thay đổi. Họ đã trở nên nô lệ cho chính mình
vì hạnh phúc của họ đặt trên một cái nền lung lay và biến động.
Nhìn lại thánh Paulinô, ai cũng thấy
ngài là một người nô lệ “tự do”. Kiếp nô lệ không thể nào làm cho ngài đau khổ;
xiếng xích nô lệ không thể ràng buộc được tình yêu trong tâm hồn ngài. Được
dựng nên theo hình ảnh Chúa nên khi hoàn toàn sống yêu thương theo tiếng gọi
của Thiên Chúa, ngài là một người tự do ngay trong cảnh nô lệ.
Khi làm nô lệ để đem lại tự do cho
một cậu con trai. Ngài theo sát gương Đức Kitô, Đấng đã mang lấy thân phận nô
lệ để cứu độ cả nhân loại. “Anh em thân mến,
chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”. (Gl 5,1)
Sự giải thoát mà Đức Kitô đem lại là
từ bỏ những đam mê xác thịt mà sống đức bác ái: “Anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng tất
cả lề luật tóm lại trong lời này: ‘Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”.
(Gl 5, 13-14)
Con đường Chúa mời gọi chúng ta bước
vào là con đường tình yêu. Đó là con đường đem lại cho chúng ta một sự tự do
không chịu một ràng buộc nào, một tâm hồn bình an trong mọi hoàn cảnh, và một
hạnh phúc bất chấp mọi yếu tố trần gian: “Con
chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. (Lc 9,58)
Yêu thương cũng là lời mời gọi đích
danh Chúa gửi đến từng người. Chúa gọi tên Maisen khi muốn ông làm người dẫn đưa
dân Chúa ra khỏi Ai cập, gọi tên Samuel khi muốn ông làm tiên tri, gọi tên Êlisê
khi muốn sai ông làm người kế tục tiên tri Êlia, … Chúa cũng gọi đích danh mỗi người
chúng ta trong ơn gọi Kitô hữu, khi muốn chúng ta đi theo Ngài.
Yên thương cũng là một lời mời gọi
mang tính dứt khoát và triệt để: Êlisê đang cày ruộng thì trở ngay về nhà, “bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi
đốt quay thịt cho dân ăn. Đoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia”. Đức Kitô đòi
hỏi những ai muốn đi theo Ngài phải đưa cuộc sống cũ vào quá khứ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”, và quyết
một lòng sống cuộc sống mới: “Ai đã tra
tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”
(Lc 9,60-62)
Tại sao những đòi hỏi gắt gao thế mà
vẫn lôi cuốn được nhiều người? Vì nằm bên dưới những đòi hỏi gắt gao đó là một
niềm hạnh phúc vững vàng đến từ tình yêu, từ sự sống của tâm hồn, từ chính Thiên
Chúa: “Con thưa cùng Chúa, Ngài là Chúa
con thờ, ngoài Chúa ra đêu là hạnh phúc?” (Tv 15,2) Mọi quyến rũ hấp dẫn
của trần gian luôn chao đảo và biến đổi sánh làm sao được với hạnh phúc Nước Trời?
Trong “Những người lữ hành trên đường
hy vọng”, ĐHY Nguyễn Văn Thuận kể chuyện “Ông Cha Ba Xu”:
Cách đây 40 năm, có một cha Việt Nam sống rất
nghèo khó và đạo đức. Đặc biệt với số tiền tiết kiệm từng xu năm này sang năm
khác, ngài đã cùng hai người thợ dần dân xây xong một ngôi nhà trang an, sáng
sủa.
Mỗi ngày ngài ăn hai bữa, mỗi bữa ba
xu va tự nấu ăn lấy: một xu gạo, một xu mắm tôm và một xu tráng miệng bằng một
mẩu bánh hình ông Phật mà dân địa phương vẫn gọi là bánh “Tam ích”. Lúc nào
cũng có người dâng cúng dư tiền mua vật liệu thì công việc tiến hành mạnh hơn,
đến lúc sạch túi thì tạm đình chỉ. Tiền bổng lễ mỗi ngày mấy hào ngài cũng dành
để trả công thợ.
Lúc mới khởi công ai cũng nói:
“Biết bao giờ mới xong được!”.
Đến ngày khánh thành, mọi người đều
hoan hỉ, cảm phục và tặng cho vị linh mục một biệt hiệu đơn sơ nhưng nói lên
tất cả lòng thương mến biết ơn: “Cha Ba Xu”. Vì quá lao lực và cam khổ, chỉ vài
năm sau, “Cha Ba Xu” qua đời giữa sự thương tiếc của mọi người. Trước lúc nhắm
mắt lìa trần, ngài nói: “Tôi sung sướng
vì đã hy sinh tất cả để làm việc Chúa, tử lao bất tử lao”.
Ngày nay, ngôi thánh đường vẫn còn
sừng sững trước mặt mọi người như tấm gương phản chiếu đức thanh bần và hồn
tông đồ sáng chói của vị linh mục.
Đừng sợ chi khi bước theo Chúa với
hai bàn tay trắng, vì “Chúa sẽ chỉ cho tôi
biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc
bên tay hữu Chúa tới muôn đời.” (Tv 15,11)
Lm. HK