CHÚA
NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN C
TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 9,51-62.
(51) Khi đã tới ngày Đức
Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. (52) Người
sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn
bị cho Người đến. (53) Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về
hướng Giê-ru-sa-lem. (54) Thấy thế, hai môn đệ Người là Gia-cô-bê và ông Gio-an
nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy
chúng nó không ? (55) Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông (56) Rồi Thầy
trò đi sang làng khác. Và Người nói với các ông : “Anh em không biết anh em
thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng,
nhưng là để cứu mạng. (56) Rồi Thầy trò đi sang làng khác. (57) Thầy trò còn
đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi
cũng xin đi theo”. (58) Người trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. (59) Đức Giê-su nói với một người khác :
“Anh hãy theo tôi !” Người ấy thưa : “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất
cha tôi trước đã”. (60) Đức Giê-su bảo : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ!
Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH :
Bài Tin Mừng hôm này gồm hai phần :
Phần thứ nhất thuật lại câu chuyện Đức Giê-su bị dân làng ở
miền Sa-ma-ri từ chối không cho vào làng ở trọ. Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an
tức giận yêu cầu Thầy cho phép sai lửa từ trời xuống thiêu hủy làng đó. Nhưng Đức
Giê-su quở mắng các ông và Thầy trò đã nhẫn nhịn bỏ đi sang trọ làng khác trọ.
Phần thứ hai ghi lại ba trường hợp người ta xin đi theo làm
môn đệ Đức Giê-su. Trong mỗi trường hợp Đức Giê-su đều đòi người ta chọn lựa
dứt khoát như sau:
+ Đối với kẻ thứ nhất, Người đòi anh phải chấp nhận cuộc sống
thiếu thốn vật chất.
+ Với người thứ hai, Người đòi anh phải ưu tiên lo việc của
Chúa hơn việc gia đình.
+ Còn người thứ ba, Người đòi anh phải chuyên tâm lo phục vụ
Nước Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH :
- C 51-52) : + Được rước lên trời : Đây là thành ngữ ám chỉ
cái chết cũng như cuộc lên trời của Đức Giê-su (Tin Mừng Lu-ca 9,31 chú thích
về cuộc xuất hành của Người). + Nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem : Lên
Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc Vượt Qua. + Vào một làng người Sa-ma-ri :
Người Do Thái tránh giao thiệp với người Sa-ma-ri và còn khinh dể họ, vì họ
không còn thuần chủng, và vì niềm tin của họ đã có nhiều điểm dị biệt so với
người Do thái. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý vào trọ trong một làng người Sa-ma-ri.
Điều này cho thấy Người chính là chủ chiên đến để tìm chiên lạc và đưa về chung
một đàn. Về sau, trước khi lên trời, Đức Giê-su truyền cho các Tông Đồ rao
giảng cho muôn dân, trong đó có dân Sa-ma-ri (x. Cv 1,8). Các ông đã vâng lời
Người : Phi-lip-phê loan báo Tin Mừng ở Sa-ma-ri (x. Cv 8,5). Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem
cũng cử 2 ông Phê-rô và Gio-an đến với
họ (Cv 8,14).
- C 53-56 : + Dân làng không đón tiếp : Người Sa-ma-ri
có ác cảm với người Do thái, đặc biệt những ai hành hương lên Giê-ru-sa-lem. +
Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy...? : Hai
môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an được gọi là “con của sấm sét” (x. Mc 3,17). Hai ông
mới được nhìn thấy ngôn sứ Ê-li-a trong cuộc biến hình của Đức Giê-su (x. Lc
9,28-36), nên giờ đây muốn dùng hình phạt giáng xuống trên kẻ thù giống như vị
ngôn sứ Ê-li-a này đã làm (x. 2V 1,10-12). + Quở mắng các ông : Đức
Giê-su muốn các môn đệ hành xử theo giáo huấn mà Người đã dạy về cách đối xử
với kẻ thù : Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Hãy chúc lành cho kẻ
nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình (x. Lc 6,27-35). + Và
Người nói với các ông : “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì
Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng” : Đức
Giê-su dạy cho các môn đệ biết việc báo thù là việc của thần dữ chứ không phải
việc của Thiên Chúa. Đức Giê-su xuống thế gian để kiện toàn luật Mô-sê vốn cho
phép trả thù báo oán những kẻ làm hại mình. Đối với Đức Giê-su : Thiên Chúa
không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa của tình thương. Tình thương
thay thế hận thù, tha thứ thay thế báo oán trừng phạt. Đó chính là tinh thần mà
các môn đệ phải học tập. + Thầy trò đi sang làng khác : Điều này
nói lên sự nhẫn nhịn của Đức Giê-su đối với những kẻ đối xử không tốt với mình.
- C 57-58 : + Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có
kẻ thưa Người rằng : Lu-ca ghi lại ở đây ba trường hợp về ơn kêu gọi
theo Chúa. Trong ba trường hợp này thì hai trường hợp được Mát-thêu thuật lại
khi Đức Giê-su bắt đầu đi giảng đạo ở Ga-li-lê (x. Mt 6,19-22). Còn trường hợp
thứ ba chỉ có trong Tin Mừng Lu-ca. Qua ba trường hợp này, Lu-ca muốn trình bày
những đòi hỏi dứt khoát đối với những ai muốn làm môn đệ Chúa. + “Thầy đi
đâu, tôi cũng xin đi theo... Con chồn có hang...” : Người này tự ý xin
theo làm môn đệ và sẽ đi đến bất cứ nơi nào. Nhưng Đức Giê-su cho anh ta thấy
cuộc sống theo Chúa là một cuộc sống khó nghèo và không ổn định. “Không có chỗ
dựa đầu”, nghĩa là không có sự bảo đảm về vật chất giống như một người vô gia
cư !
- C 59-60 : + “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi
trước đã” : Trong Tin Mừng Mát-thêu, người xin làm môn đệ ngỏ lời trước
(x. Mt 8,21-22), còn trong Tin Mừng Lu-ca, chính Đức Giê-su kêu gọi anh ta
trước. Anh ta tỏ thái độ thiếu dứt khoát qua lời cầu xin được về nhà phụng
dưỡng cha. Sau khi cha chết và lo mai táng cho cha xong, anh mới theo làm môn
đệ Người. Tại Pa-les-tin việc chôn cất người chết phải được thực hiện ngay
trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giê-su lại không đồng ý cho anh ta lưu lại
vài giờ để chôn cất cha cho tròn chữ hiếu. + “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết
của họ” : Chắc chắn Đức Giê-su rất coi trọng bổn phận hiếu thảo đối với
cha mẹ (x. Mt 15,5-9 ; 1 Tm 5,8). Nhưng khi phải lựa chọn giữa một bên là tình
cảm gia đình với bên kia là theo Chúa để đi rao giảng Tin Mừng, thì Người đòi
môn đệ phải dứt khoát chọn đi loan báo Triều Đại của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI :
1) Khi dùng thành ngữ “Được rước lên trời”, tác giả Lu-ca
muốn ám chỉ điều gì về cuộc xuất hành của Người ?
2) Đức Giê-su nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem nhằm mục đích gì
?
3) Tại sao người Do Thái tránh giao thiệp và khinh thường người
Sa-ma-ri, đang khi Đức Giê-su lại sẵn sàng đến với họ ?
4) Phản ứng của hai anh em Gia-cô-bê Gio-an và của Đức Giê-su
thế nào trước sự từ chối đón tiếp thầy trò của dân làng Sa-ma-ri ? Đức Giê-su
muốn môn đệ Người ứng xử thế nào ?
5) Người nêu gương nhẫn nhịn tha nhân ra sao ?
6) Hãy kể ra ba trường hợp xin theo làm môn đệ Đức Giê-su và
Người đòi họ điều kiện thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy
đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60).
2. CÂU CHUYỆN :
1) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG SỰ
NHẪN NHỊN THA NHÂN :
Một hôm có một
viên sĩ quan đến gặp một linh mục xin học đạo. Khi được hỏi lý do theo đạo, thì
được anh cho biết như sau :
"Trong đại đội
do tôi chỉ huy, có một anh tân binh là một tín hữu công giáo. Vào một đêm nọ,
sau khi tiểu đội đi tuần về, quần áo ai nấy đều bị ướt nhẹp, nhưng thay vì thay
quần áo đi ngủ, thì anh chàng này lại quì gối bên giường nhắm mắt cầu nguyện. Cảm
thấy ngứa mắt, tôi liền đá anh một cái ngã lăn ra sàn. Nhưng khi ngồi dậy, anh
không nói gì mà tiếp tục quỳ gối cầu nguyện. Tôi bị mệt nên mau cởi giầy ra rồi
nằm lăn ra giường ngủ. Sáng hôm sau, khi thức dậy tôi rất ngỡ ngàng khi thấy đôi
giầy tối qua tôi đã đá anh tân binh, giờ đã được lau sạch và xếp gọn để bên cạnh
giường tôi. Tôi thấy hổ thẹn về thái độ đêm qua của mình và thán phục sự nhẫn
nhịn của anh tân binh. Rồi tôi quyết tâm đến với cha để xin theo đạo".
2)
TU ĐÒI PHẢI DỨT BỎ LÒNG HAM MÊ CỦA CẢI VẬT CHẤT :
Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông
thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến bên
và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quí để làm lễ vật ra mắt. Vị linh sư
cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, anh thanh niên giàu có vội nhảy
xuống sông và lặn xuống đáy hồ cố tìm lại viên ngọc quí giá. Nhưng sau một ngày
vất vả tìm kiếm mà viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiếu đến, với vẻ mặt thất vọng, anh
thanh niên đến chỗ vị linh sư xin ông chỉ đích xác chỗ đã ném viên ngọc. Bấy
giờ vị linh sư liền cầm viên ngọc thứ hai, tiếp tục ném xuống sông và nói : “Ta đã ném vào chỗ đó. Anh hãy lặn
xuống mà tìm”. Chàng thanh niên hiểu rằng thầy muốn anh phải dứt khoát từ bỏ
lòng ham mê của cải trần gian như điều kiện tiên quyết phải có để theo làm môn
đệ của thầy.
3) TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CỦA CẢI VẬT CHẤT ĐỐI VỚI TU SĨ :
Ở một làng nọ thuộc
miền quê Ấn độ, có một đạo sĩ tên là SADHU. Với lối sống đơn giản trong nhiều
năm, ông đã gần đạt đến sự siêu thoát hoàn toàn của bậc thánh nhân. Ông đã được
dân chúng quanh vùng quí mến, và họ đã lũ lượt kéo nhau đến bái ông làm thầy dạy
đạo.
Một ngày kia, thấy
vị đạo sĩ ăn mặc sơ sài, có người đã mang đến biếu mấy mảnh vải tốt để ông may
áo che thân. Rồi khi Sadhu ngồi thiền, bầy chuột tưởng ông là tượng gỗ, rủ nhau
đến rúc vào áo của ông gặm nhấm. Có người thấy thế tội nghiệp, liền mang đến biếu
ông một chú mèo con làm bầu bạn và giúp ông xua đuổi lũ chuột quấy phá kia. Dân
làng lại thương mèo con không có gì ăn liền đem sữa tươi đến nuôi mèo. Rồi một
ngày nọ, một bà giàu có từ phương xa nghe tiếng thơm nhân đức của vị đạo sĩ, đã
đến thăm và tặng ông một con bò để ông có sữa uống và có thể nuôi mèo. Dân làng
cũng làm một cái chuồng giúp ông nuôi bò. Khi thấy bò có chuồng mà đạo sĩ lại không
có nhà, dân làng liền hè nhau đến làm cho đạo sĩ một chiếc chòi bằng lá để ông
có thể trú nắng che mưa.
Từ khi có thêm của
cải, đạo sĩ không còn có giờ tu niệm như trước. Hằng ngày ông phải bận rộn đi cắt
cỏ về nuôi bò lấy sữa uống, rồi còn phải chăm sóc cho mèo để nó giúp ông đuổi
lũ chuột. Ông cũng phải chăm lo sửa sang căn chòi bị dột. Dân làng thương ông vất
vả, nên đã nhờ một người đàn bà đến giúp ông làm công việc nhà để ông có giờ ngồi
thiền.
Từ đó đạo sĩ đã có
áo quần che thân, có mèo giúp đuổi chuột, có bò cung cấp thức ăn hằng ngày, có căn
chòi khang trang để ở, có người đàn bà đến chăm sóc phục vụ cho mình... Chẳng bao lâu
sau, đạo sĩ không còn thích ngồi thiền tu niệm nữa, vì ông phải quan tâm bảo vệ
những gì đang sở hữu. Rồi ông đã lấy người đàn bà kia làm vợ, và chấm dứt cuộc
đời hạnh tu !!!
Câu chuyện trên cho
thấy: Bao lâu chọn nếp sống đơn giản, đạo sĩ Sadhu đã nổi tiếng là một tu sĩ đắc
đạo. Nhưng từ khi sở hữu nhiều của cải vật chất thì ông cũng dần dần xa rời lý
tưởng tu hành của mình. Trong Hội Thánh Công giáo cũng như trong các tôn giáo
khác, các vị đại thánh đều có điểm giống nhau là các ngài đã chọn lối sống khắc
khổ, sẵn sàng từ bỏ các tiện nghi vật chất và quyết tâm không dính bén với các của
cải vật chất. Nhờ đó các ngài mới có một lối sống siêu thoát làm đẹp lòng Đấng
thiêng liêng và được mọi người nể phục.
4)
SẴN SÀNG VƯỢT
QUA MỌI TRỞ NGẠI ĐỂ THEO CHÚA :
- ERIC LIDDLE là
người chạy đua 100 mét nhanh nhất của nước Anh trong năm 1924. Tại Thế vận hội
thể thao O-lym-pic mở ở Paris năm đó, mọi người đều
mong đợi rằng anh sẽ chiếm được huy chương vàng về cho nước Anh. Nhưng rồi một
việc đã xảy ra làm xôn xao cả trong cũng như ngoài nước. Ban Tổ chức Thế Vận Hội sắp đặt môn chạy đua một trăm thước
vào chương trình ngày Chúa Nhật. Eric nghĩ rằng luật kiêng việc phần xác, nghỉ
ngày của Chúa, không cho phép anh chạy đua ngày Chúa Nhật. Vậy anh quyết định
không chạy đua ngày Chúa Nhật, dầu việc nầy làm cho anh rất buồn phiền. Khi tin
nầy được loan đi, mọi người sửng sốt. Họ làm áp lực tư bề để buộc anh bỏ ý định bỏ cuộc và chuẩn bị tham gia chạy đua ngày Chúa Nhật.
Nhưng Eric đã nói không là không. Thái tử nước Anh cũng đứng ra can thiệp, bắt
buộc anh phải chạy đua ngày Chúa Nhật theo như chương trình của ban tổ chức.
Trước mọi áp lực, Eric đã nói không là không. Báo chí nước Anh gọi Eric là người
phản bội. Nhưng anh cương quyết không làm điều trái với lương tâm tôn giáo của
mình. Sau đó Eric đi gặp các huấn luyện viên và đề nghị để cho một bạn đồng đội
chạy đua 100 mét ngày Chúa Nhật thay thế, còn anh sẽ chạy 400 mét trong ngày
thường, dẫu rằng trước đó chưa bao giờ anh chạy đua 400 mét cả. Một điều lạ đã
xảy đến trước sự ngạc nhiên đến sửng sốt của mọi người. Eric đã thắng cuộc chạy
đua 400 mét, rồi anh bạn đồng đội mà anh đề nghị thay anh cũng thắng trong cuộc
chạy đua 100 mét.
- Ít năm sau Thế vậy
hội, Eric lại làm cho cả thế giới ngạc nhiên lần nữa. Anh tình nguyện lên đường
sang Trung quốc giúp việc truyền giáo. Cô thiếu nữ người yêu của anh cũng theo
anh sang Trung Quốc. Với thời gian họ sinh được ba đứa con ngoan ngoãn. Thế rồi
Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Nhật Bản xua quân xâm lăng Trung Quốc. Trước tình thế
nguy hiểm, Eric gởi vợ con sang Ca-na-da lánh nạn. Ít lâu sau, anh bị quân
Nhật bắt đem đi nhốt tại một trại tập trung. Tại đây, anh tiếp tục làm việc
tông đồ giữa các bạn tù. Mấy năm sau, anh đã chết một cái chết thật can đảm và
anh dũng tại trại tập trung. Sau khi Eric chết, vợ anh nhận được hàng trăm bức
thư chia buồn, và nói lên lòng can đảm và anh dũng của anh khi bị gian trong trại.
Ít nhất có hai bức thư của bạn tù nói rằng Eric là lẽ sống duy nhất của họ
trong trại tập trung. Nếu không nhờ sự có mặt của anh trong trại, thì họ đã tự
tử chết lâu rồi.
- Đến năm 1980
nghĩa là 56 năm sau Thế vận hội Paris nói trên, có người nảy ra ý kiến làm một
cuốn phim về Eric và Thế vận hội 1924. Khi hay tin đó, vợ của anh còn sống ở To-ron-to nói :
“Thời bây giờ ai mà còn để ý tới một việc đã xảy ra lâu lắm rồi về một người
quyết không chạy đua ngày Chúa Nhật vì đức tin Kitô hữu của mình ? Ấy thế mà cuốn phim CHARIOTS OF
FIRE (Xe hỏa ngục) đã thành công phi thường. Thiên hạ đùng đùng kéo nhau đi xem
như nước lũ. Cuốn phim đã giựt giải thưởng điện ảnh năm 1982. Câu chuyện Eric
giúp chúng ta hiểu được lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: “Kẻ cầm cày mà còn
ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”
- Từ khi theo
Chúa, Eric luôn tiến bước theo Chúa, tuân giữ các giới răn dù cho thiên hạ gọi
anh là phản quốc. Đâu là bí quyết của lòng can đảm trung kiên của Eric đối với
Đức Kitô? Vợ của Eric đã nói trong cuộc phỏng vấn như sau: “Eric bao giờ cũng dậy
thật sớm, dùng giờ đầu tiên trong ngày để đọc Kinh thánh và cầu nguyện và sắp đặt
công việc cho ngày mới.” Bí quyết của lòng can đảm trung thành của anh là luôn gặp
Chúa mỗi sáng trong giờ cầu nguyện.
3. THẢO LUẬN :
Bạn sẽ phản ứng thế nào khi bị kẻ khác
đối xử không tốt để xứng đáng làm môn đệ Chúa ?
4. SUY NIỆM:
1)
GƯƠNG TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ SỐNG SIÊU THOÁT NHƯ Ê-LI-SA :
Bài đọc 1 hôm nay
kể chuyện Ê-li-sa quyết tâm theo Ê-li-a để làm ngôn sứ. Ê-li-sa là một nông
dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi, Ê-li-sa đã bày
tỏ lòng quyết tâm đi theo thầy Ê-li-a bằng việc bổ cày gỗ làm củi, giết bò làm
lễ vật, rồi thiêu đốt tất cả để dâng tiến Đức Chúa, rồi đi theo làm môn đệ thầy.
Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông dân. Đốt cày cuốc, làm thịt
trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ. Đó là một
lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không luyến tiếc những gì đã có. Đó
là thái độ dứt khoát từ bỏ để hoàn toàn phó thác và vâng phục thánh ý Thiên
Chúa.
2) DỨT KHOÁT TỪ
BỎ - ĐIỀU
KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU :
Qua 3 trường hợp theo Chúa trong bài Tin Mừng hôm
nay, Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ muốn theo làm môn đệ của Người phải có thái độ
dứt khoát như sau:
+
Quyết tâm từ bỏ lối sống an nhàn hưởng thụ : Người
thứ nhất xin đi theo Đức Giê-su đến bất cứ nơi nào. Nhưng Người đòi anh phải chọn
lựa: theo Thầy thì phải chấp nhận cuộc sống nay đây mai đó và sống thanh thoát
với của cải vật chất giống như Thầy “không có chỗ tựa đầu”. Chính Đức Giê-su ngay
đã được sinh ra trong cảnh khó nghèo như Tin Mừng Lu-ca đã ghi nhận : “Bà sinh
con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Cuối cùng, trên thập giá, Người đã
bị lột áo và bị đóng đanh chân tay vào thập giá. Trong Tin Mừng, chúng ta không
thấy chỗ nào đề cập đến một ngôi nhà riêng của Đức Giê-su hoặc của nhóm Mười
Hai môn đệ.
+
Phải cấp thời đi theo Chúa không được trì hoãn : Người
thứ hai được Đức Giê-su kêu gọi đã sẵn sàng đi theo Chúa. Nhưng anh ta xin về
nhà phụng dưỡng cha già, đến khi cha chết rồi mới đi theo. Nhưng Người đòi anh
phải dứt khoát chọn sứ vụ đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa. Còn việc báo hiếu
cha mẹ tuy quan trọng, nhưng cũng không ngăn cản được môn đệ đi theo Chúa.
+ Phải sẵn sàng
thoát ly tình cảm gia đình : Người thứ ba
xin đi theo Đức Giê-su, nhưng xin được về nhà từ giã gia đình vợ con trước đã.
Nhưng Đức Giê-su đòi anh ta phải dứt khoát với tình cảm gia đình : “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái
lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Thực ra, Đức Giê-su rất
coi trọng việc con cái phải hiếu kính với cha mẹ (x. Mt 15,4). Nhưng Người đòi
môn đệ phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,26). Còn những sự khác thì
chính Chúa sẽ lo liệu giúp chúng ta sau.
3) CON ĐƯỜNG THEO CHÚA HÔM NAY
:
Lời Chúa hôm nay đòi mỗi người chúng ta tự kiểm
điểm :
+
Phải tránh theo Chúa vì vụ
lợi :
giống
như các môn đệ theo Đức Giê-su để được "ngồi bên tả bên hữu” khi Thầy lên làm
Vua, chứ không muốn theo Chúa theo con đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo
ý Thiên Chúa. Ông Phê-rô đã can Thầy và đã bị Thầy nặng lời quở trách (x. Mt
16,21-23). Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng theo Chúa chỉ nhằm để kết
hôn hay sở hữu của cải vật chất… Rồi sau khi được như ý lại bỏ không theo Chúa
nữa.
+
Theo Chúa đòi phải từ bỏ :
Khi theo Chúa, các môn đệ phải từ bỏ tình cảm gia đình, bỏ nghề đánh cá biển để
làm nghề chài lưới các linh hồn; Theo Chúa đòi chúng ta phải bỏ đi cái tôi ích
kỷ, chấp nhận những lao nhọc thất bại trong cuộc sống, như lời Chúa Giê-su : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
+
Cần coi trọng Chúa và sứ vụ loan báo tin mừng hơn mọi thứ khác :
Nếu chúng ta coi tiền bạc, địa vị, sắc đẹp … hơn Chúa thì sẽ không xứng đáng làm
môn đệ của Chúa. Hãy noi gương tông đồ Phao-lô coi thường mọi sự vì Chúa: “Những
gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt
thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời,
là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi
coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.” (Pl 3,7-8).
+
Để theo Chúa đòi lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và xin vâng : như Chúa Giê-su
thưa với Chúa Cha :
“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Như Đức Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38).
5.
LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con cảm thấy Chúa đòi hỏi những ai
muốn đi theo làm môn đệ Chúa hơi nhiều : Vì Chúa không có chỗ dựa đầu, nên Chúa đòi con phải hãm
mình để có lối sống đơn sơ siêu thoát. Chúa còn muốn con phải ưu tiên loan báo Triều
Đại của Thiên Chúa, phải đặt tình cảm gia đình sau việc phụng sự Chúa. Xin cho con biết
noi gương Chúa : sống đơn giản
siêu thoát với của cải vật chất, hầu ngày một trở nên môn đệ thực sự của Chúa.-AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM