CHỦ NHẬT 19 TN A
LẠY THẦY XIN CỨU CON !
Có nhiều lúc cuộc sống trở nên gánh nặng kinh khủng. Chân trời dường như bị bít kín. Chán chường thất vọng, người ta cảm giác như bị nhấn chìm sâu trong vực thẳm. Thế rồi đột nhiên, một ân nhân xuất hiện, và bất ngờ người ta tìm lại được lại niềm hi vọng, khám phá ra một cách để thoát khỏi ngõ cụt. Người tín hữu gặp khó khăn cũng như thế, mỗi lần quay về với Chúa, và tái khám phá sự Hiện diện trung thành của Ngài. Người ta cảm thấy như được sống lại và tìm lại sự can đảm và niềm tin tưởng đã mất.
Sách 1 Vua 19, 9a.11-13a
Vào thời tiên tri Êlia, đức tin dường như biến mất khòi Vương quốc Israên và Tiên tri thất vọng đến nỗi muốn chết. Nhưng rồi được Chúa nâng đỡ, ông tiếp tục cuộc hành trình đến núi Sinai, nơi Thiên Chúa tỏ mình cho ông Mô sê. Ông đối diện với Chúa như Mô sê ngày xưa. Ông tìm lại được can đảm, tiếp tục sứ mạng mặc dù nhà vua vẫn tìm cách chống lại ông.
Thánh vịnh 84
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn dân của Người ra khỏi đất lưu đày khi mà họ dường như sắp bị biến mất. Chỉ cần Người làm cho họ hoàn toàn quay về với Người thì thời đại vàng son mà ai cũng mong ước sẽ trờ lại trần gian. Sẽ xảy ra chuyện gì nếu tất cả mọi người trên trần gian hành động theo Thánh ý của Thiên Chúa.
Thư Rôma 9, 1-5
Phao lô là người gốc do thái và chịu đau khổ nhiều khi thấy đồng bào của mình khước từ Đức Ki tô đấng Cứu độ trong khi người ngọai lại thành tâm tin nhận. Đức tin rất mạnh mẽ của ngài khiến ngài tin tưởng sâu xa rằng một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ hướng lòng họ quay trở lại với tình yêu của Ngài.
Mt 14: 22-33
NGỮ CẢNH
Đoạn nầy tiếp nối đoạn Tin mừng tuần trước: sau khi hoá bánh nuôi đám đông, Chúa Giê su giải tán họ và lánh riêng lên núi cầu nguyện. Các môn đệ xuống thuyền vượt biển qua bờ bên kia. Và sau đó họ đã được ban cho một cơ hội tốt để kinh nghiệm thế nào là tin vào Chúa Giê su. Ở đây cũng như trong trình thuật trước, các môn đệ ở một mình và thiếu thốn đủ mọi thứ, thiếu cả Thầy mình. Họ đã đứng trước đám đông đang lâm vào bước đường cùng. Bây giờ lênh đênh trên mặt nước, họ lâm vào cảnh ngặt nghèo, và chỉ vào giây phút cuối cùng bằng một hành động đầy quyền uy, Chúa Giê su mới ra tay cứu giúp. Trong cả hai trường hợp, Mt cho thấy thế nào thân phận của người môn đệ: luôn bị giằng co giữa sợ hãi và tin tưởng, luôn luôn bị đe doạ bởi những nghi ngờ. Nhưng qua lời cầu cứu, họ đã chiến thắng nỗi sợ hãi và nghi ngờ nhờ vào sự trợ giúp của Chúa Giê su.
Biến cố đi trên mặt biển trả lời cho câu hỏi về căn tính của Chúa Giê su và minh hoạ về quyền năng thần linh của Ngài như là Con Thiên Chúa. Đồng thời cũng cho thấy lời tuyên xưng các môn đệ sẽ đưa tới lời tuyên tín của Phê rô (16,13-20).
Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục sau đây:
1.Hoàn cảnh của các môn đệ trên biển (14,22-24)
2.Chúa Giê su đi trên mặt biển (14,25-27)
3.Chúa Giê su ra tay dùng quyền phép cứu ông Phê rô (14,28-31).
TÌM HIỂU
Chúa Giê su liền bắt các môn đệ: một kiểu nói lạ lùng. Tại sao Chúa Giê su phải ép các môn đệ ra đi? Vì họ không muốn để Ngài một mình trong đêm vắng? Hay vì Ngài sợ họ cũng bị phấn khích như đám đông đòi tôn Ngài làm vua sau khi đã chứng kiến phép lạ Ngài làm ?
Chiếc thuyền đã ra xa bờ biển đến cả mấy cây số: xa mấy dặm: một dặm dài khoảng 185 mét. Bản khác ghi: chiếc thuyền ra giữa biển. Hồ nầy rộng khoảng 12 km.
Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió”: Trong khi Mc chú ý đến những người chèo thuyền vất vả vì ngược gió (Mc 6,48), thì Mt chú ý đến chiếc thuyền. Mt muốn nói về chiếc thuyền như là một biểu tượng chỉ Giáo hội. Trong câu 33 cũng thế, Mt nói: “Những kẻ ở trong thuyền..” thay vì nói: các môn đệ.
Vào khoảng canh tư, Ngài đi trên mặt biển đến cùng họ: Canh tư là khoảng thời gian từ 3-6 giờ sáng. CƯ cũng có nhiều đoạn dùng kiểu ẩn dụ để nói Thiên Chúa đi trên mặt biển như G 9,8; 38,16; Tv 77,20; Hb 3,15; Hc 24,5. Do đó có sự song song giữa Chúa Giê su và Thiên Chúa. Điều nầy chứng tỏ rằng Chúa Giê su có quyền lực thần linh tuyệt đối và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ.
Chính Thầy đây: Chúa Giê su nói lời nầy để trấn an các môn đệ vì họ tưởng gặp ma. Ngoài ra ở đây Thiên Chúa tỏ mình ra qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên thiên nhiên. Cũng như Thiên Chúa trong CƯ thường dùng kiểu nói ‘Chính là Ta’ hay ‘Ta Là’ để tự mạc khải (St 17,1; 26,24; 28,13; 35,11; 46,3; Xh 3,6.14). Mt muốn kín đáo nhấn mạnh đến sự tương hợp giữa Chúa Giê su và Thiên Chúa.
Ông Phê rô đi trên mặt nước đến cùng Chúa Giê su: Trong Thánh Kinh, biển cả ẩn chứa quyền lực ma quỉ, thù nghịch với Thiên Chúa, và là nơi ở của kẻ chết. Do đó đi trên biển có nghĩa chế ngự và chiến thắng ma quỉ.
Người môn đệ được một quyền lực thần thiêng như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa giáo hội học của đoạn văn. Trong Mt, Chúa Giê su chia sẻ quyền tha tội cho các môn đệ (9,6; 16,19;18,18). Tuy nhiên, Phêrô chỉ đi được trên mặt nước nhờ có đức tin, vì đối với người có lòng tin, thì “chẳng có gì mà không làm được” (17,20).
Thưa Ngài, xin cứu con!: Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bảo tố (8,24), tiếng kêu của ông Phêrô là âm vang của nhiều lời khẩn cầu của các tín hữu cầu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồn nước đang đe doạ (Tv 69,2.15; 144,7). Vì thế đây là lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giê su dù với chút ít nghi ngờ.
Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!: Như các chỗ khác trong Tin mừng, lời tuyên tín nầy không phải là sự nhìn nhận Chúa Giê su là Con Một của Thiên Chúa, mà chỉ có nghĩa “Chúa Giê su là đấng Thiên sai của Thiên Chúa”. Sau đó, có thể cộng đoàn ki tô thời Mt đã lặp lại lời tuyên xưng nầy với đầy đủ ý nghĩa nghĩa là tuyên xưng Chúa Giê su chính là Con một Thiên Chúa.
Những kẻ ở trong thuyền: nghĩa là những tín hữu trong Giáo hội, theo gương Phêrô và các môn đệ, tuyên xưng Chúa Giê su là Con một Thiên Chúa. Hoạt cảnh nầy (32-33) giới thiệu Giáo Hội mới của Chúa Ki tô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Ki tô, Chúa tể của họ.
SỨ ĐIỆP
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước. Chúa Giê su vừa hoá bánh ra nhiều cho đám đông đang đói. Sau phép lạ ấy, Chúa Giê su cần yên tỉnh. Ngài không muốn trở thành một ngôi sao hoặc một thứ siêu nhân nào đó của đám đông. Thật vậy Ngài hiểu rằng đàm đông sắp kêu gọi Ngài đứng lên giải phóng đất nước Palestina khỏi sự chiếm đóng của người La mã. Đó không phải là thứ thành công mà Ngài tìm kiếm bởi vì Nước của Ngài không thuộc thế gian nầy. Đối với Ngài, điều quan trọng nhất là được hiệp thông hoàn toàn với Cha. Sau một ngày đầy hoạt động. Ngài rút lui lên núi để cầu nguyện thân mật với Thiên Chúa Cha.
Chúng ta cũng thế, đôi khi chúng ta cần sự yên tĩnh, thinh lặng, hồi tâm. Ngày nay, càng lúc càng có nhiều người muốn tĩnh tâm. Sự phát triển của các cộng đoàn tu sĩ càng lúc càng lôi kéo sự chú ý của mọi người. Rất giống với Đức Ki tô, chúng ta cần có nhiều thời giờ im lặng; nơi nào không cần thiết, miễn sao xa sự huyên náo: “Trong khi cầu nguyện, người ki tô hữu có một khoảng cách đối với cuộc sống hằng ngày, ngõ hầu khám phá ra những lời mời gọi của Thiên Chúa, và thấy rõ hơn những dấn thân mà mình cần phải có” (Đ C Robert Coffy).
Phải, chúng ta hãy dừng lại để có thời giờ cầu nguyện cho thế giới, cho gia đình chúng ta, và cũng cho tất cả những người mà chúng ta gặp trên đường đời. Như Chúa Giê su và cùng với Ngài, chúng ta có thể phó thác cho Cha những niềm vui, hi vọng và đau khổ của thế giới. Nhưng chúng ta phải thận trọng chú ý đến điều làm nên kinh nguyện thật sự khác hẵn với kinh nguyện giả tạo. Thỉnh thoảng, chúng ta để mình bị cuốn theo sự kiêu căng. Chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là trình diễn để làm hài lòng mình. Đó không phải là một cố gắng của ý chí chúng ta, nhưng là một đón nhận Chúa Giê su gõ cửa tâm hồn chúng ta. Như Đức Gioan Phao lô II đã nói, đó là để cho Ngài cầu nguyện trong chúng ta.
Bài tin mừng hôm nay cũng nói với chúng ta về lời cầu nguyện khi mọi sự đều thất bại. Chúng ta đã thấy các môn đệ trên thuyền bị sóng đánh nghiêng ngả. Rồi chúng ta cũng thấy Chúa Giê su đi trên mặt nước. Điều đó muốn nói điều gì? Đề có thể hiểu được, cần phải biết một chút về ngôn ngữ Thánh Kinh. Bởi vì Chúa Giê su không muốn chơi trò siêu nhân tìm cách làm cho mọi người hoảng sợ.
Trong thời Đức Ki tô, biển gợi lên thế giới bão táp và những con quái vật biển. Khi Chúa Giê su đi trên mặt biển, chính là để khẳng định rằng Ngài là chủ của các mãnh lực sự dữ. Trong sách Khải Huyền, chúng ta đọc thấy không còn biển nữa. Trong ngôn ngữ biểu tượng đương thời, đó là cách xác định rằng các mãnh lực sự dữ sẽ bị tiêu diệt.
Khi Thánh Mát thêu viết tin mừng, Ngài nói với những người ki tô hữu đang bị bách hại. Họ hiểu ngay rằng bão táp, không chỉ là bão biển mà còn là bão đánh trên Giáo Hội. Con thuyền của Phê rô chao đảo, chập chờn tứ phương và các cộng đoàn ki tô hữu hoàn toàn bị hoảng hốt. Bấy giờ Mát thêu nhắc cho họ nhớ rằng điều đã xảy ra ngày xưa với nhóm Mười hai khi họ ở với Chúa Giê su trên biển. Ngài loan báo cho họ Tin mừng ấy: Với Ngài, sự dữ không bao giờ là tiếng nói cuối cùng.
Nhưng họ không cô đơn, vì có Chúa Giê su ở đó; Ngài đến gặp các môn đệ, nhưng họ lại không nhận ra Ngài. Họ tưởng rằng đang gặp ma. Khi tất cả mọi sự trở nên thê thảm, chúng ta không còn tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống và ở giữa những thử thách của chúng ta nữa. Nhưng tin mừng vẫn còn đó để nhắc chúng ta nhớ rằng Chúa Giê su luôn ở đó để trấn an chúng ta và ban lại cho chúng ta can đảm và hi vọng. Tông đồ Phê rô đã được mời gọi nhảy xuống nước và đi như Chúa Giê su trên các mãnh lực sự dữ. Nhưng được một lát, ông hoảng sợ. Bấy giờ sự dữ đã lấy lại quyền lực của nó trên ông và cuối cùng nhận chìm ông xuống biển. Ở đây cũng vậy, chính sự sợ hãi đã khiến ông cầu cứu: “Lạy Chúa, xin cứu con!”.
Chúng ta phải như Phê rô, phải biết nhảy xuống nước; cả khi đức tin của chúng ta như đức tin của Phê rô chạm trán với nhiều thăng trầm. Có những ngày chúng ta không biết cầu nguyện; lúc đó, chúng ta phải kêu cứu lên Chúa Giê su, xin Ngài cứu vớt chúng ta. Và Ngài đáp lại chúng ta: “Hãy tin tưởng lên, chính Ta đây, đừng sợ”. Và Ngài sẽ mời chúng ta đi trên mặt biển, nghĩa là thực hiện điều không thể.
“Đừng sợ”, Đức Gioan Phao lô II đã nói như thế ngày Ngài nằm tay lái con thuyền của Phê rô. Đó không phải là một lời mời gọi ở yên không làm gì cả và chờ đợi mọi sự từ Thiên Chúa. Đó là một lời đáp trả lời mời gọi ngỏ với chúng ta: “Hãy đến!”. Chúa là đấng chiến thắng trên sự dữ đòi chúng ta phải đầy tin tưởng tiến lên trước. Ngài ở với chúng ta trong mọi nỗi lo âu. Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài.
ĐÀO SÂU
1. HỎI. Có phải việc Chúa Giê su “đi trên mặt nước” hoàn thành lời sấm tiên tri về Đức Ki tô trong Cựu Ước không?
THƯA. Đúng. Chúa Giê su hoàn thành điều mà trong CƯ chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm được chế ngự nước. Thật vậy, trong Kinh Thánh, nước là dấn chỉ của những mãnh lực đen tối, đã bị Đức Ki tô khuất phục như trong công trình tạo dựng. Đức Ki tô là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa nguồn phát sinh Tạo thành và Lề luật, do đó có thể chế ngự được thiên nhiên. Đức Ki tô là Ađam thứ hai, không phá hủy Tạo thành, nhưng làm cho nó trở nên Mới nhờ việc Nhập thể và Quyền năng của Thiên Chúa, mà cả ma quỉ cũng phải thờ lạy.
2. HỎI. Ngay cả các môn đệ cũng có thể làm được như thế?
THƯA. Đúng, trong mức độ họ đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê su và hành động dưới sự hướng dẫn của Đấng Phục sinh trong suốt cuộc đời trần thế.
3. HỎI. Ở đây , có phải vang vọng lại lời động viên của Chúa Giê su: “Can đảm lên, đừng sợ!”
THƯA. Đúng thế. Chúa Giê su không đến trần gian để ban cho chúng ta những món quà rẻ tiền. Trái lại, Ngài đã cảnh giác chúng ta: cuộc đời có những thử thách, đau khổ và người ki tô hữu cũng không tránh khỏi. Thiên Chúa ở gần chúng ta, nhất là trong những lúc cần thiết nhất. Vấn đề là chúng ta hãy luyện tập đôi mắt đức tin để biết nhìn thấy và mở rộng tâm hồn đón nhận sự hiện diện của Ngài trong mọi lúc. Với ông Êlia chạy về núi Khô rép, Thiên Chúa đã hiện ra ngang qua một làn gió nhẹ chứ không trong những dấu chỉ vĩ đại mà trong CƯ dành cho các cuộc Thiên Chúa hiển linh.
4. HỎI. Thánh Mát thêu cho chúng ta thấy kinh nghiệm của các tông đồ trước việc Chúa Giê su đi trên mặt nước như thế nào?
THƯA. Trải nghiệm của các môn để được trình bày tuần tự qua qua năm khung cảnh nối tiếp nhau từ một biến cố duy nhất. Các câu đầu tiên gợi lại việc hóa bánh ra nhiều, sau đó Chúa Giê su cầu nguyện ban đêm. Lời cầu nguyện cho thấy mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: tương quan tình yêu, ở trong nhau, cùng chung “sự sống” với Đấng là Chủa tể của sự sống. Khung cảnh thứ hai cho thấy chiếc thuyền của các môn đệ đang vất vả chèo chống trong cơn bão biển. Nhưng trong phép lạ bảo táp yên lặng, Chúa Giê su đã ở với các ông trên con thuyền: tuy ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện ở đó, còn bây giờ thì Ngài vắng mặt. Khung cảnh thứ ba có Chúa Giê su đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ. Họ kêu lên vì hoảng sợ và Chúa Giê su đã trấn an họ. Ở khung cảnh thứ tư, chúng ta thấy Thánh Phê rô, bao lâu còn tin vào quyền năng của Chúa Giê su, được Ngài chấp nhận cho đi trên mặt nước, nghĩa là được chia sẻ quyền Chủ tể trên mọi sự. Trong khung cảnh thứ năm, Chúa Giê su lên thuyền, sóng gió im lặng và các môn đệ tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giê su: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
5. HỎI. Đâu là trải nghiệm của các môn đệ trong câu chuyện nầy?
THƯA. Các môn đệ trải qua một kinh nghiệm tiệm tiến về một thầy Giê su mà họ tưởng là đã biết. Một thầy Giê su đã lánh riêng đi lên núi ban đêm, đi trên mặt nước, một thầy Giê su không thể thiếu vắng để chiếc thuyền (Giáo Hội) đến nơi phải đến. Chúa Giê su sai các môn đệ đi trước và Ngài đến sau. Dường như Ngài muốn có một chuyến đi âm thầm trong bóng đêm để giúp các môn đệ khám phá ra căn tính của người lạ “đầy quyền năng chế ngự thiên nhiên”. Nhưng chính khi Thiên Chúa dường như vắng mặt lại là lúc hiện diện nhiều hơn cả. Ê lia khám phá ra Ngài trong làn gió nhẹ, các môn đệ khám phá ra Ngài nơi Chúa Giê su trong cơn bão táp trên biển.
6. HỎI. Vậy như Êlia và các tông đồ, cả chúng ta cũng có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giê su một cách gần như hữu hình chứ?
THƯA. Chắc rồi, chỉ cần ngước nhìn lên và cầu khẩn, Chúa Giê su sẽ đến với chúng ta. Điều quan trọng là nhận ra Ngài, quì gối trước mặt Ngài và tuyên xưng lại niềm tin của chúng ta.
7. HỎI. “Phép lạ” là gì?
THƯA: Phép lạ là một biến cố không thể giải thích được theo luật tự nhiên, nhưng phải được gán cho một sự can thiệp siêu nhiên và thần linh. Theo cách hiểu thông thường, người ta thường nhấn mạnh khía cạnh lạ lùng, ngoại thường của phép lạ, còn trong ngôn ngữ thần học, người ta thích coi đó là dấu chỉ.
8. HỎI. Trong ngôn ngữ Híp pri, phép lạ được quan niệm ra sao?
THƯA: Trong ngôn ngữ Híp pri, phép lạ được coi như là một dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa và lòng nhân ái của Ngài đối với Dân ưu tuyển, đặc biệt thường xảy ra trong những ngày xuất hành khỏi Ai cập. Trong Kinh Thánh có ghi lại nhiều biến cố lạ lùng được coi như phép lạ. Đặc biệt cuộc xuất hành khỏi Ai cập và biển Đỏ khô cạn là hai biến cố biểu tượng cho mọi cuộc giải phóng Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.
9. HỎI. Còn trong các sách Tin mừng thì sao?
THƯA: Trong các sách Tin mừng thì phép lạ được coi như là dấu chỉ Sứ mạng của Đức Ki tô, và tiếp sau đó là sứ mạng của các Tông đồ và môn đệ. Giáo lí của Giáo Hội nhìn nhận có phép lạ trong một khung cảnh bao quát của Lịch sử Cứu độ như cần thiết đối với con người.
10. HỎI. Tại sao Chúa Giê su thực hiện các phép lạ?
THƯA: Ngài làm phép lạ không phải để chiêu dụ người ta theo mình, nhưng để thuyết phục dân chúng hiểu rằng Ngài hoàn thành các lời Thánh Kinh. Thật vậy, Chúa Giê su thường từ chối làm phép lạ khi Ngài nhận thấy tâm địa xấu xa của các người đối thoại. Đặc biệt trong việc Sa tan thử thách trong sa mạc như là cao điểm. Hoặc khi phép lạ bị hiểu sai lạc, như sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Ngài lẫn trốn đám đông đang muốn tôn Ngài làm vua. Có nhiều lần Chúa Giê su buộc những người được hưởng phép lạ phải im lặng và không được nói cho ai biết. Trong viễn tượng đa tạp của tin mừng, chỉ có Thập giá là dấu chỉ khó chấp nhận nhưng đầy uy lực giúp người ta sám hối và tin vào Chúa Giê su.
11. HỎI. Các luật sĩ và biệt phái tuy không tin vào Chúa Giê su, nhưng không bao giờ nghi ngờ về các pháp lạ của Ngài?
THƯA: Không, trừ ra dấu chỉ “Ngôi mộ trống”. Các phép lạ không bao giờ bị các nhà phê bình thời đó bác bỏ. Trong suốt suộc sống và sứ vụ của Chúa Giê su, không bao giờ Ngài bị tra hỏi là đã thực hiện các phép lạ không. Ngài chỉ bị chất vấn là làm thế nào mà Ngài có thể làm phép lạ. Họ muốn biết quyền năng và uy tín của Ngài bởi đâu ra (Mt 21,23). Hằng trăm người được chữa lành và các đối thủ của Ngài đã không thể bác bỏ. Ngày lễ Hiện xuống, gần hai tháng sau khi Chúa Giê su chịu đóng đinh, Simon Phê rô nói với đám đông đang tụ họp rằng: “Thưa đồng bào Ít ra ên, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê su Na gia rét là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mạng của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính em em biết điều đó”(Cv 2,22). Ở đây, ông Phê rô, đứng trước đám đông thù nghịch, khẳng định rằng chính nhiều người đã nhận biết các phép lạ Chúa Giê su. Rõ ràng việc Chúa Giê su thực hiện các phép lạ là điều không thể phủ nhận.