Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh C
Cv 5, 27b-32.40b-41;
Kh 5,11-14 ; Ga 21,1-19
LÒNG MẾN,
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO
QUYỀN MỤC
TỬ

1. TIN MỪNG: Ga
21,1-19
(1) Sau đó, Đức Giêsu lại
tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như
thế này: (2) Ông Simon Phêrô, Ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người
Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất
cả đang ở với nhau. (3) Ông Simon Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh
cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người ra
đi, lên thuyền. Nhưng đêm hôm ấy họ không bắt được gì cả. (4) Khi trời
đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra
đó chính là Đức Giêsu. (5) Người nói với các ông: “Này các chú,
không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không”. (6) Người bảo các
ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được
cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy
những cá. (7) Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông
Phêrô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “chúa
đó”, ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống
biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá,
vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần trăm thước. (9)
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên,
và có cả bánh nữa. (10) Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt
được tới đây!”. (11) ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ.
Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều
như vậy mà lưới không bị rách. (12) Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!”
Không ai trong đám môn đệ dám hỏi: “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng
đó là Chúa. (13) Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông. Rồi
cá, Người cũng làm như vậy. (14) Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình
ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết. (15) Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon
Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này
không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu
nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. (16) Người lại hỏi”
“Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không? “Ông đáp: “Thưa
Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên
của Thầy”. (17) Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh
có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh
có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự.
Thầy biết con yêu mến Thầy. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của
Thầy”. (18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang
tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”.
(19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào, để tôn
vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
2. Ý CHÍNH: Đây là đoạn cuối của Tin mừng
thứ tư, được chia làm 4 phân đoạn sau:
1- Các Tông đồ
tập trung tại miền Galilê rủ nhau đi đánh cá và kết quả các ông không
bắt được con cá nào! (C 1-3).
2- Chúa Phục Sinh
xuất hiện chỉ cho các ông nơi thả lưới. Các ông vâng lời và đã bắt
được mẻ cá lạ lùng. Nhờ đó các ông đã nhận ra Người (C 4-8).
3- Trong bữa ăn
sáng đã được dọn sẵn, Chúa Phục Sinh đã truyền lấy thêm cá mới bắt
được và đã cử hành Lễ Bẻ Bánh giống như đã từng làm trước đó (C
9-14).
4- Cuối cùng Chúa
Phục Sinh đã sát hạch Phêrô về lòng yêu mến trước khi trao quyền mục
tử cho ông. Người cũng tiên báo cái chết đau thương sẽ đến với ông lúc
cuối đời (C 15-19).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Biển hồ Tibêria: Tìn mừng Mátthêu
cho biết khi hiện ra với Maria Mácđala và một bà khác tên là Maria,
Chúa Giêsu đã yêu cầu các bà báo tin cho các môn đệ để họ đến Galilê
gặp Người (Mt 28,1.10). + Ông Simon Phêrô...: Tin mừng kể ra
số các môn đệ đang ở chung khi ấy là 7 ông: Simon Phêrô, Tôma, Nathanaen,
hai anh em Giacôbê Gioan và hai môn đệ khác. Simon quyết định sẽ đi đánh
cá và được các ông kia hưởng ứng.- Đêm hôm ấy họ không bắt được
gì: Người ta thường đi đánh cá vào ban đêm. Nhưng hôm ấy các ông
đã luống công vô ích!
- C 4-8: + Người môn đệ được Đức Giêsu
thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”: Gioan luôn
phát hiện ra Chúa Giêsu trước các anh em nhờ lòng yêu mếnThầy. + Phêrô
khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển: Phêrô tính
vốn nóng nảy, nên khi nghe “Chúa đó!”, thì ông đã vội khoác áo vào
và nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để mau gặp Người.
- C 9-11: + Bước lên bờ, các ông nhìn
thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên: Chúa Giêsu đã
nêu gương phục vụ dọn sẵn bữa ăn sáng cho môn đệ. Các ông đã được
Người mời ăn và tăng cường thêm bằng cá mới bắt được. + Simon
Phêrô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ: Nếu Gioan là người suy
tư chiêm niệm nên sớm nhận ra Chúa trước mọi người, thì Simon Phêrô
lại là người mau mắn hành động để biểu lộ lòng yêu mến Thầy. Điều
này cho thấy suy niệm và họat động cần luôn đi đôi với nhau trong việc
xây dựng Hội thánh. + Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm
năm mươi ba con: Theo thánh Hi-ê-rô-ni-mô thì các nhà vạn vật
học thời xưa đã khám phá ra được 153 loại cá. Con số 153 ở đây tượng
trưng mọi dân tộc, và tất cả đều được mời gọi gia nhập vào Hội
thánh: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển gom
được mọi thứ cá” (x. Mt 13,47). + Lưới không bị rách: tượng
trưng cho sự hiệp nhất trong Hội thánh.
- C 12-14: + “Anh em hãy đến mà ăn!”: Lời
Chúa mời gọi các môn đệ đến ăn, giống như Người đã mời các ông dự
tiệc Thánh thể (x. Mt 26,26). Bánh được trao cho môn đệ giống như Đức
Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,11). + “Con cá”: tiếng
Hy-lạp gọi là IK-TUS. Đây là năm chữ đầu của một lời tuyên xưng đức
tin: “Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” (Ièsous Kristos Théou Unios
Sôter). Khi chia sẻ Cá, Chúa Giêsu ngụ ý sẽ chia sẻ Thánh Thể Người
là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” cho các môn đệ. + Đó là lần
thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ: theo Gioan thì lần
thứ nhất Chúa Phục Sinh hiện ra vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần
không có Tôma (x. Ga 20,19-23); Lần hai 8 ngày sau đó và có Tôma (x. Ga
20,26-31). Đây là lần thứ ba Người hiện với 7 môn đệ tại biển hồ
Galilê.
- C 15-17: + “Anh có mến Thầy hơn các
anh em này không?”: Sau ba lần sát hạch về lòng mến, Đức
Giêsu đã từng bước biến đổi Phêrô đang từ một người đánh cá trở
thành một mục tử có quyền chăn chiên (x. Ga 10,11). Tuy nhiên đàn chiên
kia vẫn thuộc về Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. + Ông
Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?: Phêrô
đau lòng vì việc bị hỏi ba lần làm ông liên tưởng đến ba lần ông đã
chối Thầy (x. Ga 13,38 ; 18,17.25-27). Đức Giêsu đã tế nhị khi không
trực tiếp đề cập đến tội của Phêrô, mà chỉ yêu cầu ông xác định
tình yêu dành cho Người. Mỗi lần Phêrô khẳng định lòng mến, lĐức
Giêsu lại tha tội và trao thêm quyền: “Hãy chăm sóc chiên con của
Thầy...”(C 5-17).
- C 18-19: + Lúc còn trẻ... Nhưng khi
đã về già....: Tuổi trẻ có đặc tính là tự do hành
động (“Đi đâu tùy ý”). Tuổi già có đặc điểm là gò bó thụ động
(“Anh sẽ phải dang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và dẫn
anh đến nơi anh chẳng muốn: ). + Người nói như vậy có ý ám chỉ
ông sẽ phải chết cách nào: Quả thật, lời tiên báo này đã
được ứng nghiệm vào lúc cuối đời của Phêrô trong cơn bách hại đạo
tại Rôma thời hoàng đế Nêrông. Phêrô đã phải chịu khổ hình thập giá
nhưng lại xin treo đầu ngược xuống đât, vì ông cảm thấy mình không
xứng đáng được chịu cùng hình khổ giống như Thầy.
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao các môn đệ lại cùng hiện
diện tại Biển hồ Tibêria thuộc xứ Galilê vào thời điểm sau khi Chúa
phục sinh ? 2) Có mấy môn đệ cùng đi đánh cá với Simon Phêrô ? 3) Do
đâu mà Gioan luôn nhận ra Chúa Giêsu trước các anh em khác ? 4) Chúa
Giêsu đã tiên báo thế nào về số phận cuối đời của Tông đồ Phêrô ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn
thuyền, thì sẽ bắt được cá”(Ga 21,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẦY ĐI ĐÂU?
Câu chuyện truyền
kỳ về những ngày sau cùng của thánh Phêrô với cái chết đã được
Chúa Giêsu tiên báo: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt
lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho
người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, để
ám chỉ
ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.
Câu chuyện truyền kỳ đã được dựng thành phim “Quo vadis” nghĩa là: “Thầy đi
đâu?” như sau:
Bấy
giờ tông đồ Phêrô đã đến Thủ đô của Đế quốc Rôma, giữa lúc hoàng
đế Nêrông
đang ra tay bách hại đạo Công giáo. Một số tín
hữu đã
chịu chết vì đạo. Trước tình thế nguy hiểm, các tín hữu đã
khuyên
Phêrô hãy
mau chạy
trốn khỏi thành, để tiếp tục sứ vụ lãnh đạo Hội Thánh.
Nhờ
khéo cải trang và thoát được sự rà soát kỹ lưỡng của bọn lính canh cổng, Phêrô
đã ra
được bên ngoài. Nhưng rồi ông đã gặp Chúa Giêsu mặc áo trắng
đang đi ngược vào trong thành, ông liền hỏi Người rằng: “Quo vadis?” nghĩa
là “Thầy đi đâu?” Chúa Phục Sinh đã trả lời: “Thầy đi
vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”. Nói
xong Chúa biến mất. Phêrô hiểu được ý Chúa, nên ông lại quay trở
lại vào thành Rôma.
Ít ngày sau, ông đã bị quân Rôma bắt giam chung phòng với các tín hữu sắp chịu
hành hình. Tai đây, ông đã an ủi động viên họ hãy can đảm
và kiên trì trung thành tin vào Chúa Giêsu. Rồi
ông đã bị tòa kết án tử hình. Đến ngày bị đưa ra vận động trường chịu hành
hình, Phêrô đã được chứng kiến cảnh các tín hữu: kẻ
thì bị
quăng ra để làm mồi cho thú dữ cắn xé ăn thịt, kẻ
thì bị
cháy thành than trên dàn hoả thiêu. Khi đến lượt chịu đóng
đinh trên thập giá, Phêrô đã đề nghị quân lính treo thập giá ngược để
đầu ông
quay
xuống đất và chân giơ lên trời, vì ông
nghĩ
mình không xứng đáng được đóng đinh cùng một cách thức giống như Thầy
Giêsu.
2) CÁI CHẾT ANH DŨNG
CỦA ĐỨC CHA ROMERO NƯỚC EL SANVADOR:
Trong số các Giám
Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar
Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống,
Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và
nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội,
đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và
nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng
giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng
thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu.
Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng
như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những
kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài.
Sáng ngày
24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện
của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho
các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các
tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra
như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong
vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: "Như chủ chăn sẵn sàng hiến
mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình
tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng". Đức
Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút
súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy
và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ
trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập
giá ngày xưa.
Đức tổng Giám mục
Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: "Thà vâng
lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta".- (Trích đài phát
thanh Veritas)
3) CẬU ĐÃ LÀM
ĐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊSU?
Một buổi tối nọ,
viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp SÁC ĐỜ PHUCÔ (Charles de Foucauld) đang
say sưa kể cho mọi người trong gia đình nghe về những chiến công hiển
hách trong nhiều trận chiến cùng những cuộc thám hiểm của anh ở
nước Ma-rốc xa xăm. Người chăm chú lắng nghe kể chuyện nhất lại là cô
cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kết thúc câu chuyện, thì bất
ngờ cô bé đã hỏi như sau: “Thưa cậu, cháu rất hãnh diện khi thấy cậu
làm được những việc lớn lao cho nước Pháp. Thế nhưng cháu thắc mắc
điều này là: “Cậu đã làm đựơc gì cho Chúa Giêsu chưa?”
Câu hỏi ấy như
một luồng điện khiến anh giật mình. Từ trước đến nay, chưa bao giờ
anh gặp câu hỏi nào bắt phải suy nghĩ nhiều như thế. Phải, “Anh đã
làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?” Khi đối diện với Chúa, anh đã nhận
ra rằng: từ trước đến nay anh đã phí phạm thì giờ ăn chơi xa xỉ, đã
chạy theo bả vinh hoa phú quí vô ích. Giờ đây anh đã ý thức được sự
nghèo hèn của mình. Sau đó vài ngày, anh xin nhập vào một dòng tu
và xin bề trên cho đến ở miền Nadarét nước Ítraen quê hương Chúa
Giêsu, để tận hiến trọn đời phụng sự Người.
Một ngày nọ, đang
lúc cầu nguyện trong nhà, anh bỗng nghe thấy có tiếng than van rên rỉ
của một người Hồi giáo nhưng không biết tiếng nói đó phát ra từ đâu.
Anh liên tưởng đến Lời Chúa Giêsu về thái độ phải có đối với những
kẻ thù ghét mình, và quyết định sẽ đi làm bạn với người Hồi giáo.
Anh dời đến sống ở giữa sa mạc Sahara bên Phi châu, nơi có nhiều người
Hồi giáo nghèo khổ. Thế rồi “điều phải đến đã đến”: Vào đầu tháng
12 năm 1916 khi đang cầu nguyện trong nhà, anh đã bị một toán người
Hồi giáo cực đoan kéo đến sát hại. Ngày nay các tiểu đệ và tiểu
muội tiếp tục sống theo lý tưởng của anh là tự nguyện sống giữa người nghèo để lao động và chia sẻ nỗi
khốn cùng của họ, và giúp họ thăng tiến để được ơn cứu độ.
3. THẢO LUẬN: 1) Những khó khăn mà Hội thánh, đặc biệt là
Đức Giáo Hoàng phải đương đầu hiện nay là gì? 2)Mỗi tín hữu chúng ta cần làm
gì cụ thể để cảm thông với những khó khăn của các chủ chăn, để có thể cộng
tác với các ngài trong sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ đoàn chiên Hội thánh?
4. SUY NIỆM:
1) Mẻ
cá lạ lùng là hình ảnh của sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh:
Đoạn
Tin Mừng
CN hôm nay thuật lại câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade
hay là Ghennêsarét thuộc xứ Galiêa, nơi các môn đệ Đức
Giêsu đã
từng hành nghề đánh cá trước khi theo làm môn đệ Người. Đây cũng là nơi mà
Chúa Phục
Sinh đã nhắn tin cho các môn đệ phải trở về Galilê để gặp Người.
Trong lúc rảnh rỗi, các ông đã rủ nhau đánh bắt cá trong biển hồ. Nhưng sau một
đêm vất
vả cực nhọc vô ích, vào lúc tảng sáng, các ông đã gặp được Chúa Phục
Sinh đứng trên bờ hồ mà các ông không nhận ra. Người đã hướng dẫn các ông
đánh bắt cá và kết quả là một mẻ cá lạ lùng. Môn đệ Gioan đã nhận ra Thầy
Giêsu
trước hết. Còn
Phêrô khi biết là Chúa Phục Sinh, liền khoác áo vào rồi nhảy xuống nước bơi vào
bờ để gặp Thầy cho nhanh.
Về
con số 153 con cá lớn theo các nhà chú giải Kinh Thánh là tượng trưng cho
mọi loại
cá thời bấy giờ. Như vậy, dưới ánh sáng của Lời Chúa, mẻ lưới lạ
lùng của
các tông đồ chính là hình ảnh sứ vụ loan Tin Mừng của Hội Thánh.
Chính nhờ Thần Khí của Chúa Phục Sinh mà Hội Thánh sẽ chu toàn được sứ vụ loan
báo Tin Mừng, đưa muôn dân tộc vào đoàn chiên của Chúa Giêsu.
2) Những khó khăn trên bước đường loan
báo Tin Mừng:
Việc thi hành sứ vụ
loan báo Tin Mừng không phải là điều dễ
dàng: Bài đọc I trong sách Công vụ Tông đồ cho thấy các môn đệ của
Chúa đã
bị các đầu mục Do thái cấm rao giảng về danh Chúa Giêsu. Nhưng các ngài đã sẵn sàng chịu hình phạt để chu toàn
sứ vụ này. Tông đồ Phaolô nhiều lần bị ném đá, bị đánh đòn, bị cùm trong ngục
tù, bị đắm tàu, đói khát, mình trần… vì danh Chúa Giêsu. Cuối
cùng hầu hết các tông đồ đều chịu chết để làm chứng cho Chúa.
Thực
ra, sứ vụ rao giảng Tin Mừng không dành riêng cho các
Giám mục, Linh
mục, Tu sĩ… mà chung cho
mọi
tín hữu đã chịu phép rửa tội và Thêm Sức. Ở mọi nơi mọi lúc,
người làm tông đồ rao giảng Tin Mừng đều có thể gặp phải
những khó khăn bách hại … Nếu chỉ dựa vào sức riêng, chắc
chắn chúng
ta sẽ dễ thất bại và nản chí buông xuôi. Nhưng
nếu
biết cậy nhờ ơn Thánh Thần của Chúa Phục
Sinh hướng dẫn trợ lực, chúng ta sẽ luôn hăng hay chu
toàn sứ vụ này
và đạt được nhiều thành quả to lớn. Bởi vì “không có
gì mà
Thiên Chúa không làm
được”. Điều quan trọng là chuyên cần lắng
nghe Lời Chúa, suy niệm để tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực hành với ơn phù trợ
của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn sẽ đạt được kết quả lạ lùng.
3) Tin yêu: điều kiện để được tha tội
và được trao quyền chăn dắt đoàn chiên:
Sau bữa ăn thân mật
trên bãi biển,
Chúa Phục Sinh đã tâm sự riêng với ông Phêrô. Trước khi trao
quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh, Chúa Phục Sinh đã đòi
Phêrô tuyên xưng ba lần yêu mến như sau: “Anh có mến Thầy hơn
các anh em này không?” Qua đó Người đòi các mục tử phải có
lòng mến
Người hơn
những người khác. Đồng thời qua việc tuyên xưng này, Người
gián tiếp tha tội chối Thầy cho Phêrô.
Đáp
lại câu hỏi của Chúa, ông Phêrô đã ba lần thưa như sau: “Thưa Thầy có, Thầy biết
con yêu mến Thầy”. Trên cơ sở lòng mến này, Chúa Giêsu
đã lần
lượt trao
ban quyền chăn
dắt chiên con và chiên mẹ cho ông.
Người cũng
tiên báo sau này ông sẽ bị bắt bớ và giết hại để làm chứng cho Người.
4) Cảm thông và cộng tác với các mục tử
trong Hội Thánh hôm nay:
Ngày nay, có
biết bao
các vị mục tử đang âm thầm chịu thiệt thòi
đau khổ,
để chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng. Các ngài đã can đảm trung
thành với nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên, giống như các tông đồ xưa khi bị điệu
ra Thượng Hội Đồng Do thái, đã trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng
lời người phàm” (Cv 5,29).
Ngày
nay, các tín hữu chúng ta cần biết cảm thông với những khó khăn gian khổ
của các vị mục tử đang phải chịu để năng cầu nguyện cho các
ngài. Nhất là mỗi người chúng ta phải trở thành những cánh tay nối dài của các
vị chủ chăn bằng cách quảng đại góp phần xây dựng cơ sở vật chất và sẵn sàng đảm
nhận việc phục vụ cộng đoàn theo sự phân công của các ngài.
Để
làm được điều này, chúng ta cần hăng hái gia nhập vào các hội đoàn Tông Đồ Giáo
Dân để được bồi dưỡng đức tin qua các sinh hoạt học sống Lời Chúa hằng tuần,
chu toàn các công tác tông đồ bác ái được cấp trên phân công. Ngoài ra, còn phải
năng dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ loan
báo Tin Mừng như các tông đồ khi xưa.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU
PHỤC SINH.
Lúc chúng con đi
tìm Chúa trong nước mắt sầu thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con,
như Chúa đã gọi tên chị Maria Mácđala khi chị đang đứng khóc bên cạnh
ngôi mồ trống.
Lúc chúng con
chán nản muốn bỏ Chúa để trở về cuộc sống đời thường, xin hãy cùng đi
với chúng con trên những nẻo đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai
môn đệ về làng Emmau.
Lúc chúng con đang
đóng kín cửa lòng vì sợ hãi, xin Chúa hãy ngự đến chúc bình an,
như Chúa đã hiện đến trấn an các tông đồ đang khiếp nhược sợ hãi.
Lúc chúng con đang
cố chấp muốn làm theo ý riêng và ngày một xa cách anh em, xin hãy
biến đổi lòng trí chúng con, như Chúa đã không bỏ mặc tông đồ Tôma cứng
tin, nhưng đã giúp ông cảm nghiệm mầu nhiệm Phục Sinh và tuyên xưng đức tin vào
Chúa.
Lúc chúng con đã
vất vả thâu đêm mà không đạt tới kết quả nào, xin hãy dùng Lời Chúa
dẫn đường chỉ lối cho chúng con và bổ dưỡng chúng con bằng bữa tiệc
Thánh như Chúa đã phục vụ các Tông đồ tại bờ hồ Galilê.
- LẠY CHÚA GIÊSU.
Xin hãy tỏ cho chúng con thấy Chúa đang hiện diện trong Hội thánh và
nơi tha nhân nhất là nơi những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi. Xin cho
chúng con luôn xác tín rằng: Chúa vẫn đang hiện diện, đang đến với
chúng con mỗi ngày qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể; Chúa vẫn luôn
đi bên và ở trong lòng chúng con, thổi hơi ban Thần Khí để tái tạo đức
tin của chúng con, hầu giúp chúng con chu toàn được sứ vụ “được sai đi
loan báo Tin mừng đến cho mọi người”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM