CHỦ
NHẬT 2 PHỤC SINH C
Chúa Phục sinh hiện diện giữa chúng ta. Một khi đã
sống lại, Chúa Giê su không bao giờ chết nữa. Ngài ở giữa chúng ta và trong
chúng ta. Chỉ nhờ vào sự Hiện diện sinh động của Ngài mà chúng ta mới được qui
tụ trong Đức Tin, Hi vọng và Tình yêu. Đó là điều mà Lời Chúa ngày hôm nay nhắc
nhở chúng ta.
Sách Công Vụ
5,12-16
Chúa Giê su, Đức Ki tô đang hoạt động trong Hội
thánh của Ngài. Quyền năng mà Chúa Giê su bày tỏ khi qui tụ các đám đông, khi
dạy dỗ họ, và khi chữa lành các bệnh nhân, tiếp tục hoạt động trong Cộng đoàn
các tín hữu, vì thế chúng ta phải có Đức tin.
Thánh vịnh 117
Thánh vịnh nầy đã được hát lên trong Thánh lễ Chủ
nhật Phục sinh, tán dương cách thức mà Thiên Chúa đã dùng để biến đổi các tình
thế tuyệt vọng nhất thành có lợi cho Dân Người. Đối với người Ki tô hữu, Chúa
Giê su thực sự là Đấng, dù bị anh em mình chối bỏ, đã trở thành Nền tảng xây
dựng thế giới mới.
Sách Khải
Huyền 1,9-11a.12-13.17-19
Đoạn văn mạc khải thực tại sâu xa hãy còn che
khuất bởi bề ngoài. Với bẩy Hội thánh vùng Tiểu Á, biểu tượng cho Hội Thánh
toàn cầu, tác giả khẳng định chiến thắng của Chúa Giê su, chủ tể của Lịch sử.
Ngay từ khởi thủy, Đức Ki tô đã nẩy mầm trong Lịch sử, hướng lịch sử đến tình
trạng viên mãn, từ nay được biểu hiện qua sự Phục sinh của Ngài. Với các tín hữu
của mình, ngài gởi đến lời mời gọi Hi vọng. Đừng để bị đánh lửa bởi những cái
bề ngòai.
Tin mừng Ga
20,19-31
NGỮ CẢNH
Trong bốn sách Tin Mừng, chóp đỉnh của các trình
thuật Chúa Giê su sống lại là việc Người hiện ra cho nhóm Mười Một qui tụ ở một
nơi. Dù cho hoàn cảnh và các chi tiết có khác nhau, thì lời khẳng định vẫn luôn
luôn là như nhau. Và lần nào cũng nhấn mạnh đến sự thử thách của đức tin.
Riêng đối với Gioan trong câu chuyện về ông Tôma, tác giả đề cao sự tiến
triển đức tin vào Chúa Giê su sống lại qua khung cảnh được diễn ra trong hai
giai đoạn. Và trình thuật khép lại với một vài khẳng định cốt yếu: ơn ban Thánh
Thần, ơn tha tội, sai đi truyền giáo, khẳng định của niềm tin hoàn toàn vào
Chúa Giê su, là Chúa và là Thiên Chúa.
TÌM HIỂU
Vào chiều ngày ấy: bà Maria Mađalêna đi ra mồ từ
« sáng sớm » (20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài đã trôi qua
trước cuộc hội ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ diễn
ra vào buổi chiều (6,16; 13-17), nhưng vẫn còn thuộc ngày thứ nhất (20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Mađalêna đầy sự
ngẫu hứng và yêu mến. Bà đi thẳng đến Chúa và đã gặp được Ngài. Còn các môn đệ
thì khác thì chưa hết « sốc » bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù có
những bước chân của Phêrô và Gioan, họ vẫn còn lẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa
Giê su cần phải ban cho họ niềm xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật
nầy có lẽ phản ánh nỗi khó khăn mà Hội Thánhgặp phải: một vài người mạnh dạn
đến với Chúa, trong sự đơn sơ của niềm tin; một số khác thì chậm chạp hơn vì
nhiều thử thách mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: « Đâu có hai
hay ba người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ » (Mt 18,20).
« Bình an cho anh em »: lời chào được
lặp lại ở câu 21. Đó là câu chào hỏi bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy
nhiên, bình an là một khái niệm giàu ý nghĩa bao hàm toàn bộ những gì làm cho
cuộc sống hạnh phúc. Sự bình an của thời đại cánh chung là một ơn ban quí giá
nhất của Thiên Chúa ban cho con người đã được các tiên tri báo trước. Ơn trên
được ban cho là nhờ vào những nỗi khổ đau mà Người Tôi Tớ phải gánh chịu: «Chính
người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người
đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta
được chữa lành » (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở giữa các môn đệ của
Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho sự bình an (x.14,27; 16,33).
Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ thuộc về Ngài
trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: « Ngài là chính sự bình an
của chúng ta » (Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở Lc 24,39, Chúa Giê su
muốn liên kết các nổi đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc phục sinh của Ngài, khi
tỏ cho thấy các vết thương của Ngài. Chỉ có Gioan nói, và nói đến ba lần (ở đây
và cc, 25-27), đến vết thương cạnh sườn Ngài (x. 19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục
sinh, lời kinh của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: « Để
họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con » (Ga 17,l3).
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các
môn đệ của Ngài không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai
phái họ ra đi. Cả bốn tin mừng đều đồng qui về điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc
24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những điều mà Chúa Giê su cầu
nguyện cho các môn đệ của Ngài (17,18). Và cũng nhằm nối tiếp sứ mạng mà Ngài
đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su lặp lại « Bình an cho các
con ». Ra đi vào thế gian, họ mang theo mình sự bình an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gioan, cử chỉ nầy là dấu chỉ đưa
đến một thực tại sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao lại
trên thánh giá (19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban
Thánh Thần đó được liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Luca bố trí biến cố Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng
đặt mối tương quan đó trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính
ngày Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê su, lịch sử cứu độ đạt
đến giai đoạn cuối cùng. «Vào lúc khởi đầu: Thiên Chúa đã «thổi sinh
khí » (Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung
tâm thế giới mới, mà ngài đã tác sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính
Thiên Chúa để cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao hồm việc tha tội
(x. Lc 24,47). Từ đầu sách tin mừng Gioan là một lời mời gọi tiếp nhận sự sống
ngang qua niềm tin vào Chúa Giê su; do đó, tội lỗi căn bản chính là sự từ chối
tin. Gia nhập vào cộng đoàn các tín hữu, những người có niềm tin vào Chúa Giê su
phục sinh, có nghĩa là xác nhận rằng tội riêng đã được tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song
đối của một tổng thể duy nhất là sứ mạng của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn
cứu độ (3,16-17; 5,20-30).
Tô ma: trong khi các tin mừng khác đề cập đến sự
hồ nghi nơi các môn đệ trước sự sống lại của Chúa Giê su, thì Gioan theo thói
quen, nhân cách hoá câu chuyện.
Mười Hai: nhóm Mười Hai là nhóm các nhân chứng đức
tin, chỉ được Gioan gợi lại ở đây và ở đoạn 6,67-71.
Chúng tôi đã được thấy: sứ điệp đi ngay vào điểm
cốt yếu của lời chứng, như trong câu nói của Maria Mađalêna (20,18).
Nếu tôi không thấy: « thấy » và
« tin » là hai động tác căn bản đối với Chúa Giê su phục sinh
(20,8.18). Sự đòi hỏi của Tôma chuẩn bị cho giáo huấn của Chúa Giê su (20,29).
Dấu đinh: chi tiết gợi nhớ về cuộc khổ nạn được
nhấn mạnh và lặp đi lặp lại (20,20.27). Chúa Giê su đã thực sự chịu đau khổ cho
đến chết. Nếu Ngài sống lại thì cũng vì Ngài đã chấp nhận trao ban sự sống (x.
12,25).
Tám ngày sau: ngày này được người ki tô hữu coi
như khởi đầu tạo thành mới, loan báo trước ngày của Chúa, khi tạo thành ngày
thứ nhất sẽ đạt tới mức độ hoàn tất.
Cạnh sườn Thầy: đối với Gioan, vết thương ở cạnh
sườn mang một ý nghĩa nghĩa quan trọng. Nó mời gọi nhận ra nơi Chúa Giê su là
đấng hoàn tất Thánh Kinh.
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!: sách
Tin mừng không nói là ông Tôma đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê su và đã xỏ
bàn tay vào các vết thương. Chỉ nguyên việc gặp gỡ Chúa Giê su phục sinh đã
biến người cứng lòng tin số một trở thành mẫu mực và phát ngôn viên cho tất cả
mọi người tín hữu. Tôma đồng hóa Chúa Giê su với Chúa của Israel,với Thiên Chúa
của mọi tín hữu.
Phúc: mối phúc nầy được chuẩn bị bởi hai trình
thuật đi trước. Chính việc được thấy là đặc ân dành cho một vài người, bởi vì
họ đã được chọn trước làm chứng nhân cho Đức Ki tô và xây dựng Hội Thánh. Nhưng
tất cả các tín hữu được mời gọi nhận biết Chúa Giê su phục sinh mà không được
phúc nhìn thấy Ngài. Người môn đệ được Chúa Giê su yêu mến đã không cần nhìn
mới tin (20,8). Ngài thật có phúc, và cùng với ngài tất cả những người trong
Hội Thánh biết tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giê su phục sinh nhờ chứng tá của
nhóm Mười Hai và nhờ lời tuyên xưng của ông Tôma (1Pr 1,8).
SỨ ĐIỆP
Giáo Hội đã bước vào mùa
Phục sinh từ chủ nhật tuần trước. Chúa Giê su Phục sinh đã từ cõi chết bước qua
sự sống. Đối với các môn đệ của Ngài, chiều thứ sáu đã là một thử thách đau
thương. Chính bản thân họ không còn tự hào về mình. Cảm thấy nguy hiểm gần kề,
họ đã bỏ chạy hết; ông Phê rô đã ba lần khẳng định là không biết Ngài. Còn các
ông khác đã phản bội lòng tin tưởng của Thầy mình.
Ngay chính lúc mà họ không còn một chút hi vọng gì
thì chính Chúa Giê su đã đến gặp họ. Ngài có thể trách họ: “Tại sao anh em lại
bỏ Thầy trong lúc Thầy chịu khổ nạn? Và Phê rô, tại sao anh lại chối Thầy? Tại
sao anh không tin vào Thầy?”. Nhưng Ngài đã không trách họ điều gì cả. Trái lại
Ngài nói với họ về sự bình an, và chúc họ: “Bình an cho anh em”, Ngài muốn trấn
an họ, giúp họ lấy lại can đảm và tin tưởng, để họ có thể làm lại cuộc hành
trình cho một sứ mạng rộng lớn đang chờ đợi họ.
Ngày hôm nay, cũng còn những ki tô hữu thất vọng
và chán nản qua cách sống của mình. Sau khi đã lãnh nhận tình yêu của Thiên
Chúa cho cuộc sống, cuối cùng họ rời xa Ngài: họ nói: “Chán quá, tôi không còn
ra trò gì nữa. Xưng tội có ích gì, xưng tội rồi phạm lại, thì xưng làm gì!
Trong chính lúc mệt mỏi chán chường đó mà Chúa tìm cách gặp họ. Ngài không muốn
đưa ra những lời trách cứ, nhưng giúp họ tìm lại bình an và niềm vui sống. Ngài
muốn có những liên hệ thân hữu và tin cậy lẫn nhau với mọi người nhằm chuẩn bị
thực hiện sứ vụ mà Ngài ủy thác cho họ. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta
ngay cả khi chúng ta quay lưng lại với Ngài.
Đó là sự bình an mà Chúa muốn cho ban các môn đệ
của Ngài và cho từng người chúng ta. Chính vì lẽ đó mà Ngài ban quyền năng tha
thứ tội lỗi. Bí tích tha thứ là cuộc gặp gỡ với Chúa không ngừng yêu thương
chúng ta. Chính lúc quay trở lại với Ngài và hòa giải với Ngài mà chúng ta tìm
lại sự bình an đích thực. Chỉ cần chúng ta chìm vào trong đại dương tình yêu ở
trong Ngài. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn người con hoang đàng: khi một người
tội lỗi trở về, Thiên Chúa mở tiệc ăn mừng.
Và đó là cuộc gặp gỡ thứ nhất của Chúa Giê su với
các môn đệ của Ngài. Ngày đó, ông Tô ma vắng mặt. Khi anh em kể lại những gì đã
xảy ra, thì ông đòi bằng chứng. Ông muốn thấy tận mắt và sờ tận tay. Vậy cần
phải có một cuộc gặp gỡ với Chúa Giê su để vượt qua sự bất tín ấy. Đối với
chúng ta cũng thế, chúng ta có được chứng từ của cha mẹ, thầy cô giáo lí, và
của những người mà chúng ta gặp gỡ trên đường. Nếu không, chúng ta sẽ rất khó
lòng mà khám phá ra Đức Ki tô. Nhưng những điều đó chưa đủ, cần phải có một sự
gặp gỡ thực sự với Đức Ki tô phục sinh.
Cũng như Tô ma, chúng ta cần những nơi chốn mà
chúng ta có thể diễn tả sự hòai nghi của chúng ta. Đối với ông, đó là nhóm các
môn đệ. Đối với chúng ta, đó sẽ là cộng đòan giáo xứ, một nhóm nghiên cứu hay
cầu nguyện nào đó. Chính khi cùng với nhau, với mọi người mà chúng ta có thể
như ông Tô ma “sờ” được Đức Ki tô phục sinh. Nếu bản thân chúng ta không đi đến
với Ngài, nếu chúng ta không sờ vào Ngài trong lời cầu nguyện và trong các bí
tích, đức tin của chúng ta sẽ tàn héo và không động lực. Làm sao chúng ta có
thể là những người tín hữu mà không trở thành những người thực hành gặp gỡ
thường xuyên với Đức Ki tô?
Trong cuộc lữ hành đức tin ấy, chúng ta lấy trường
hợp Tôma để làm gương. Chúng ta có thói quen cười nhạo sự cứng lòng của ông.
Nhưng cần phải nhìn lại cho kĩ. Thật ra, ông đã đi xa hơn anh em mình vì ông là
người đầu tiên đã nói: “Lạy Chúa, và Thiên Chúa của con!” Điều đó có nghĩa là
đức tin của ông đã thúc đẩy ông thờ lạy. Đức Ki tô phục sinh không chỉ là một
người bạn mà ông đã biết: Ngài còn là “Chúa của tôi và là Thiên Chúa của tôi”.
Điểm cuối cùng là cả hai lần gặp giữa Chúa Giê su
và các môn đệ đều xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần, nghĩa là vào ngày Chủ
nhật. Cũng chính vào ngày đó mà Ngài gặp các cộng đòan nhóm họp nhân danh Ngài.
Ông Tô ma đã vắng mặt lần đầu; ông phải chờ đợi tám ngày sau, nghĩa là chủ nhật
sau đó để nhận ra nơi Chúa Giê su “Chúa và là Thiên Chúa của con!”
Cũng chính Đức Ki tô phục sinh ấy chờ đợi chúng ta
ở nhà thờ. Rất thường chúng ta sẵn sàng nại đủ mọi lí do để không đến tham dự.
Dù sao thì sự gặp gỡ với Ngài cũng là giây phút quan trong nhất trong tuần.
Ngài đến mang lại bình an cho chúng ta. Ngài nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và
Tiệc Thánh Thể của Ngài. Chúng ta đến kín múc nơi nguồn suối cho phép chúng ta
nuôi dưỡng đức tin và làm chứng.
Ngày hôm đó, ông Tô ma đã trải qua một ngày chủ
nhật rất đẹp. Còn chúng ta phải làm cho 52 ngày chủ nhật cũng đẹp như thế.
ĐÀO SÂU
CHÚNG TÔI ĐÃ
NHÌN THẤY CHÚA
Cv 5,12-16 Quyền năng Đức Ki tô phục sinh nơi các
tông đồ thu hút nhiều ngườit tin vào Ngài
Tv 118,2-4, 22-24, 25-27a Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa
hảo tâm, vì đức từ bi Người muôn thuờ
Kh 1,9-11a, 12-13, 17-19 Trong một thị kiến Gioan
đã nhìn thấy Đức Ki tô vinh quang
Ga 20,19-31 Tám ngày sau khi sống lại, Chúa Giê su
hiện ra với các môn đệ
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: CHÚNG TÔI ĐÃ NHÌN THẤY
CHÚA. Tám ngày sau khi sống lại, Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ (BTM). Sau
đó, dù không còn hiện diện hữu hình, quyền năng Đức Ki tô phục sinh nơi các
tông đồ thu hút nhiều người tin vào Ngài (Bđ 2). Bài sách Khải huyền mở cửa
trời cho chúng ta chiêm ngưỡng Đức Ki tô vinh quang (Bđ1).
2. HỎI: Bài
đọc một nói về điều gì?
THƯA: Bài đọc một cho thấy một
hình ảnh tuyệt vời về cộng đoàn Ki tô hữu đầu tiên khiến chúng ta mơ ước. Các
tín hữu đồng tâm nhất trí. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa.
Khi kể lại những bước đầu tốt đẹp đó, có lẽ Thánh Luca muốn khuyến khích chúng
ta đi theo chiều hướng ấy, vì một cộng đoàn huynh đệ là điều kiện thiết yếu cho
việc loan báo Tin mừng.
3. HỎI:
Tại sao thánh Luca mô tả ‘các tín hữu thường hội họp tại hành lang Sa-lô- môn’?
THƯA: Thánh Luca cho thấy ngay
sau khi Chúa Giê su sống lại, các môn đệ vẫn tiếp tục đến Đền thờ: họ là người
Do thái và vẫn mãi là người Do thái. Đức tin của họ lại càng mạnh mẽ hơn sau
những biến cố ấy, vì dưới mắt họ, các lời hứa Cựu Ước cuối cùng đã hoàn tất.
4. HỎI: Hành
lang Sa-lô-môn ở đâu?
THƯA: Hành lang Sa-lô-môn là
khu vực nằm dưới hàng cột phía Đông là nơi các thầy Kinh sư dạy dỗ học trò, và
cũng là nơi nghỉ chân cho các khách hành hương. Chúa Giê su cũng thường giảng
dạy các môn đệ ở đó và có đám đông vây quanh. Nơi đây cũng thường xảy ra các
cuộc tranh luận với các Kinh sư và người Do thái.
5. HỎI: Tại
sao Thánh Lu ca kể lại các cuộc chữa bệnh do Phê rô và các Tông đồ thực hiện?
THƯA: Khi kể lại các việc chữa
bệnh do Phê rô và các Tông đồ thực hiện, Thánh Lu ca muốn so sánh với những
bước đầu trong việc rao giảng của Chúa Giê su một vài năm trước đó. Thánh Luca
kể về các tông đồ: ‘Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ
lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất
cả đều được chữa lành’ (5,16). Cũng chính Ngài đã viết trong Tin mừng về Chúa
Giê su như sau: ‘Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ
bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ’ (Lc
4, 40-41).
6. HỎI: So
sánh như thế nhằm mục đích gì?
THƯA: Thánh Lu ca muốn nói
rằng: sứ mạng cứu thế của Đấng Mê-si-a đã được tiếp nối ngang qua sứ vụ các
tông đồ. Việc truyền giáo không thể thực hiện nếu không có các người rao giảng Tin
mừng. Và nếu các tông đồ tiếp nối công việc Chúa Giê su thì bây giờ anh em phải
tiếp nối công việc của các Ngài. Đức Ki tô tin tưởng và chờ đợi anh em.
7. HỎI: Bài
đọc thứ hai (Kh 1, 9-11a.12-13.17-19) có nội dung như thế nào?
THƯA: Trong thời gian Giáo Hội vượt
qua những bão tố của lịch sử, Đức Ki tô đã là người chiến thắng, người đầu tiên
và cuối cùng. Ngài nắm trong tay tất cả yếu tố chiến thắng một cuộc chiến mà
trong đó Giáo Hội tham gia chống lại mọi quyền lực của sự dữ và cái chết.
8. HỎI: Ngữ
cảnh bài Tin mừng (20, 19-31) như thế nào?
THƯA: Đoạn Tin mừng nằm trong
chương 20 là chương cuối cùng của phần 2 (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo
lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin mừng. Trước đó, Phê rô
và Gioan chạy ra mồ Chúa (20,1-10), Chúa Giê su hiện ra với Ma-đa-lê-na
(11-18). Có ba ý chính: 1) Chúa Giê su hiện ra với các môn đê không có Tô ma
(20,19-23). 2) Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ và Tô ma (20,24-29). 3) Kết
luận tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Chúa Giê su (20,30-31).
9. HỎI: Ý
nghĩa đoạn Tin mừng xoay quanh vấn đề gì?
THƯA: Đoạn Tin mừng xoay quanh
về vấn đề Đức tin. Đức tin là hành vi cá nhân nhận biết Chúa Giê su đang sống
một cách vô hình ngang qua việc chấp nhận chứng từ của các môn đệ. Đức tin ấy
chính là nguồn mang lại hạnh phúc đích thực cho con người.
10. HỎI: Tại
sao Thánh Gioan viết: ‘vào ngày thứ nhất trong tuần’?
THƯA: Thánh Gioan viết như thế
nhằm lưu ý các tín hữu đương thời của Ngài hãy nhớ đó là ngày đặc biệt đối với
họ, đồng thời giúp họ hiểu ‘tại sao họ nhóm họp vào ngày thứ nhất trong tuần’.
Đối với người Do thái thì ngày thứ nhất là ngày làm việc, nhưng đối
với người tín hữu đang sống ở giữa thế giới Do thái, thì ngày đó đánh dấu một
khác biệt hoàn toàn. Đó là ngày Chúa Giê su sống lại từ cõi chết, bắt đầu một
thời đại mới, một tạo dựng mới. Cũng như tuần bẩy ngày người Do thái nhắc lại
bẩy ngày Sáng tạo, tuần lễ mới bắt đầu từ khi Chúa Ki tô sống lại đã được người
Ki tô hữu hiểu như là bắt đầu việc sáng tạo mới.
11. HỎI:
Kiểu nói ấy còn có ý nghĩa gì nữa không?
THƯA: Ngoài ra, kiểu nói ‘buổi
chiều ngày thứ nhất trong tuần’ là một cách nhắc nhở người tín hữu nhớ rằng:
Ngày thứ nhất trong tuần là Ngày của Chúa, Ngày của Tạo dựng mới đã đến. Kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa đã hoàn tất.
12. HỎI: Tác
giả muốn nhấn mạnh điều gì khi viết: ‘các cửa đều đóng kín… nhưng Chúa Giê su
vẫn hiện đến đứng giữa các ông’?
THƯA: Thánh Gioan muốn nhấn
mạnh đến sự tương phản: các môn đệ quá sợ hãi cho bản thân mình nên đóng kín cửa,
còn Chúa Giê su thì vẫn tự do. Dù cửa có đóng kín, Ngài cũng vẫn vào được. Đối
với Ngài, cửa đóng kín không thành vấn đề, nhưng nhất là Ngài không biết sợ
hãi.
13. HỎI: Tại
sao Chúa Giê su chúc bình an cho các môn đệ?
THƯA: Bình an là điều mà mọi
người mong ước cuối cùng đã trở thành hiện thực. Chúa Giê su tỏ mình ra ở
Giê-ru-sa-lem, kinh thành xây dựng cho bình an và Ngài chúc ‘bình an cho anh
em’, vì Ngài là Thiên Chúa. Như thế bình an được hiện thực. Khi viết điều nầy,
chắc hẳn Thánh Gioan đã nghĩ đến tất cả các lời hứa của các tiên tri, như
I-sai-a: ‘Một đứa bé sinh ra cho chúng ta, một người con được ban cho chúng ta,
hoàng tử hòa bình’ (Is 9); hay Giê-rê-mi-a: ‘Chính ta biết kế hoạch ta định làm
cho các người, kế hoạch thịnh vượng (bình an) chứ không phải tai ương…’ (Gr 29,
11).
15. HỎI: Tại
sao tác giả hai lần đề cập đến ‘Nhóm Mười Hai’ (cc.24-25)?
THƯA: Thánh Gioan muốn nêu bật
tầm quan trọng của tông đồ đoàn trong việc khơi dậy đức tin. Chính nhờ chứng từ
của nhóm Mười hai mà ông Tô ma đã tự vấn và nhận ra Chúa Giê su.
16. HỎI:
‘Chúng tôi đã được thấy Chúa’ có nghĩa gì?
THƯA: ‘Thấy Chúa Giê su’ là tiến
trình từ việc thấy Ngài về phương diện nhân loại, bằng xương bằng thịt, đạt đến
ngôi vị của Ngài và nhận biết bằng cách tin vào ngôi vị đó. Chính vì thế mà
Chúa Giê su đã trả lời cho Phi líp như sau: ‘Phi líp, ai thấy Thầy là đã thấy Cha;
lảm sao anh nói: xin tỏ cho chúng tôi thấy Cha’ (11, 15-16).
17. HỎI: Như
vậy ‘thấy’ và ‘tin’ có liên quan với nhau không?
THƯA: Thánh Gioan luôn nối kết
hai động từ “thấy” và “tin” để làm nổi bật sự kiện căn bản nầy: ‘tin’ là ‘thấy’
ngang qua các sự kiện cụ thể hay chính con người Chúa Giê su. Đó là niềm tin
vào một vị Thiên Chúa làm người.
18. HỎI: Đối
với trường hợp Tô ma thì sao?
THƯA: Tô ma đã ‘thấy’ Chúa Giê
su khi Ngài còn sống, theo nghĩa ‘thấy’ thông thường, và ông đã ‘thấy’ Ngài
theo nghĩa ‘đã nhận biết’ trong đức tin sau khi Ngài đã phục sinh.
19. HỎI: Câu
tuyên xưng đức tin: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con’ có nghĩa gì?
THƯA: Tô ma tuyên xưng niềm tin
vào Đức Giê su, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: ‘Lạy Chúa của con, và
là Thiên Chúa của con’. Đối với ông bây giờ, Đức Giê su là Đức Chúa và Thiên
Chúa. Ngài là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ và chính là Thiên Chúa, vì sau khi
sống lại, Ngài lấy lại tất cả vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho từ thuở đời
đời. Lời tuyên xưng nầy đánh dấu cao điểm của đức tin vào Đức Giê su.
20. HỎI: Đức tin và bình an có liên quan với nhau
không?
THƯA: Có. Đức tin là đi vào trong bình an và hạnh
phúc, hoa trái của cuộc Khổ nạn vinh hiển.
21. HỎI: Mối
phúc mà Chúa Giê su nêu lên có ý nghĩa gì?
THƯA: Hạnh phúc mà Chúa Giê su
nói đến trong các Tin mừng luôn luôn là phần thưởng dành cho những ai đã cố
gắng sống đức tin vào Ngài. Phần thưởng ấy là chiếm hữu Nước Trời (Tin mừng
nhất lãm, x. Mt 5, 3.10), hoặc sự sống đời đời (Tin mừng Gioan, x. Ga 20,31). Cuối
cùng thì Tôma cũng đã được ‘hạnh phúc’ nhờ lòng tin vào Chúa Giê su.
22. HỎI:
Chúa Giê su Phục sinh hiện ra cho các môn đệ để làm gì?
THƯA: Tất cả các cuộc hiện ra
là nhằm mục đích cho các môn đệ tin vào Ngài là Đấng mà Thiên Chúa Cha sai đến,
và để nhờ tin mà được sống muôn đời. Thật vậy, sau khi sống lại, Chúa Giê su đã
làm mọi cách giúp các môn đệ nhận ra và tin vào Ngài. Ngài sẵn sàng làm tất cả
những gì cần thiết để họ tin: hiện ra, gặp gỡ, nói chuyện, ăn uống, tỏ cho thấy
các vết thương. Mục đích của lòng nhân hậu và khoan dung ấy là: ‘Chớ cứng lòng,
nhưng hãy tin’. Vì thế Chúa Giê su đã tuyên bố mối phúc duy nhất trong Tin mừng
thánh Gioan: ‘Phúc cho ai không thấy mà tin’.
23. HỎI: Tại
sao thánh Gioan nói đến niềm vui?
THƯA: Vì Gioan nhớ lại lời Chúa
Giê su vào buổi chiều cuối cùng: ‘Bây giờ anh em lo buồn; nhưng Thầy sẽ gặp lại
anh em, lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em không ai lấy mất được’
(Ga 16, 22).
24. HỎI: Ban
Thánh thần hoàn tất điều gì?
THƯA: Trong chính ngày đó, ngày
thứ nhất trong tuần mà Đức Ki tô ban Thánh Thần cho các môn đệ Ngài như tiên
tri Ê-dê-ki-ên đã loan báo: ‘Ta đặt Thần khí Ta trong các ngươi’. Chúa Giê su
thổi hơi trên các môn đệ của Ngài và nói: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’.
Gioan cố ý dùng lại từ trong sách Sáng thế (Stk 2,7): như Thiên Chúa đã thổi
hơi sự sống vào con người, Chúa Giê su cũng khai mạc sáng tạo mời khi thổi thần
khí của Ngài cho con người.
25. HỎI: Ban
Thánh Thần để làm gì?
THƯA: Trong Kinh Thánh, Thánh
Thần luôn luôn được ban xuống là nhằm một sứ vụ, và thực sự, Chúa Giê su đã đến
để ban cho các môn đệ sứ vụ mà Ngài đã nhận được từ Thiên Chúa Cha: ‘Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai anh em’. Đó là sứ vụ loan báo cho thế gian chân lý như
Ngài, chân lí duy nhất mà con người cần đến để được sống; ‘Thiên Chúa là Cha,
là Tình yêu, là ơn tha thứ và lòng thương xót’.
26. HỎI:
‘Thầy sai anh em’ có nghĩa gì?
THƯA: Chúng ta nên nhớ lúc đó,
các môn đệ đang giam mình trong phòng kín. Vì thế lời Chúa Giê su nói với họ: ‘Thầy
sai anh em’ có nghĩa là giờ đây anh em không còn được giam mình như thế nữa. Sứ
mạng thật cấp bách, thế gian chết vì không biết chân lí, nghĩa là bị giam hãm
trong tội lỗi của nó, trong sự xa cách đối với Thiên Chúa. Vì thế, không còn sứ
mạng nào cần thiết hơn là giao hòa con người với Thiên Chúa: tất cả mọi sự khác
đều phát xuất từ đây.
27. HỎI:
Thực thi Sứ điệp của Lời Chúa như thế nào?
THƯA: Làm chứng hay
thể hiện lòng tin vào Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót bằng tâm tình,
thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm. Nói cách khác là chẳng
những chúng ta thể hiện lòng tin ấy bằng lời kinh, tiếng hát mà còn bằng cách
sống bao dung, quảng đại và xót thương đối với mọi người trong gia đình và
ngoài xã hội.
GLCG 651 ‘Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời
rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng’
(1 Cr 15,14). Trước hết, sự Phục Sinh tạo nên việc xác nhận tất cả những gì
chính Đức Kitô đã làm và đã giảng dạy. Tất cả các chân lý, kể cả những chân lý
mà tâm trí nhân loại không thể đạt tới, đều được biện minh, một khi Đức Kitô
phục sinh đưa ra lý chứng tối hậu, mà Người đã hứa, về thẩm quyền thần linh của
Người. (X. Đức tin là ơn Thiên Chúa ban 153-155. Là hành vi con người 156-159.
Đức tin tìm biết 156-159. Đức tin cần thiết và khởi đầu cuộc sống đời đời
161-165).