Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Phục Sinh A
ĐỨC GIÊ-SU – CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐƯA TA LÊN TRỜI
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.
TIN MỪNG: Ga 14, 1-12
(1) Lòng anh em đừng xao
xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha của
Thầy, có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì
Thầy đi dọn chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em
cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi. (5) Ông
Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao chúng con biết được đường ?” (6) Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy”. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của
Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người. (8) Ông
Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như
thế là chúng con mãn nguyện”. (9) Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với
anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha. (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói
ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc
của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy, Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha
ở trong Thầy. Bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12)
Thật, Thầy bảo thật anh em: Ai tin vào Thầy, thì Người đó cũng sẽ
làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn
nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
2.
Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã
Môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ
trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc
khải Người là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến
được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã
thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật
thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9).
Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin
vào Người (12).
3.
CHÚ THÍCH:
-
C 1-2: + Đừng xao xuyến: Có lẽ sau khi nghe Thầy cho biết sắp phải
chịu tử nạn (x. Ga 12,32-33), có một kẻ trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp
Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), thì các
môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản, nên Đức Giê-su đã phải
lên tiếng để động viên tinh thần của các ông. + Hãy tin vào Thiên Chúa và
tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin
vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy
hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay
thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số
giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì câu này nghĩa là trên
thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết
các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên
thiên đàng sẽ có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không
phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.
-
C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không
về trời một mình, mà Người sẽ quay lại đón các ông lên trời, để
các ông cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại:
Khi nào Người trở lại ? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo
hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế Chúa Giê-su sẽ lại đến
phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các Môn đệ được hưởng hạnh
phúc thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự
đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của từng cá nhân Môn đệ.
Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các
Môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện
diện với các Môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ
ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18).
Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên
đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).
-
C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi
đâu làm sao chúng con biết được đường ?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con người thực
nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận
(x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các
người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x.
Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật
và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy
nhất dẫn đưa loài người từ đất lên trời, giống như chiếc thang tổ
phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều
cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ. Nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt
1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9)
và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha,
nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến
mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban
sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người mới có thể ban sự sống đời
đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu mang nơi mình
mầm sống vĩnh cửu phải tiếp tục đón nhận sự sống ấy qua các phép
bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và cố gắng góp phần làm phát
triển sự sống đó cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn với Chúa Cha
ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập
giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai
có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt
16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì
dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài Danh
Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người:
Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô
hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người
phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng kể như đã thấy Chúa Cha
rồi, vì Chúa Giê-su là Em-ma-nu-en nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5) và vâng
theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga
10,30).
-
C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha: Phi-líp-phê
đòi Đức Giê-su chỉ cho xem Chúa Cha như Mô-sê ngày xưa đã xem thấy Đức
Gia-vê trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết ngày nay Thiên Chúa sẽ
không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức
Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ
Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là chính Đức Giê-su (x. Ga 1,18),
vì Người được ví như Đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). +
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được
mặc khải nơi Đức Giê-su là Con của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Tất cả
đời sống, lời nói và việc làm của Người là nơi mà Chúa Cha sẽ được
tỏ mình ra cách hoàn hảo. Vì Đức Giê-su luôn kết hiệp với Chúa Cha
và làm theo ý Chúa Cha.
-
C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người
đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mệnh cứu độ loài
người. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha: Không phải các Môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn
Đức Giê-su, nhưng sau khi Người lên Trời, các ông được trao sứ mệnh thay
Người đi rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới với
ơn phù trợ của Thánh Thần (x. Cv 1,8).
4.
CÂU HỎI:
1) Tại sao các Môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức
Giê-su phải động viên tinh thần các ông ? 2) Đức Giê-su muốn nói gì qua
câu "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở" ? 3) Đức Giê-su hứa
đi trước để dọn chỗ và Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người
vào lúc nào ? 4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự
sống, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì ? 5) Câu "Không ai đến
được với Chúa Cha mà không qua Thầy" có ý nghĩa thế nào ? 6) Ngay
từ bây giờ các Môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua ai ? 7) Từ đây ai muốn
gặp Chúa Cha thì phải gặp qua người nào ? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ
làm được những việc Người đã làm và còn làm được việc gì lớn hơn
nữa cụ thể là những việc gì ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9b).
2.
CÂU CHUYỆN :
1)
MẮT PHÀM KHÔNG THỂ THẤY THIÊN CHÚA VÔ HÌNH :
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu
tập tất cả các giám mục trong nước vào trong hoàng cung. Vua ra lệnh
cho các Giám mục trong một tuần lễ phải chứng minh Thiên Chúa là Đấng
có thực. Nếu không chứng minh được thì tất cả các Giám mục sẽ bị khép
vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi
nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô
hình được ? Rồi càng gần đến hết hạn định, tâm trạng các vị Giám
mục lại càng bị bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết
câu chuyện, liền đến xin phép được thay cho các Giám mục để chỉ cho
nhà vua xem thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng
quần thần đến một ngọn đồi giữa buổi trưa nắng gắt. Anh chỉ tay lên mặt
trời và tâu nhà vua: “Muôn tâu bệ hạ, thảo dân xin bệ hạ nhìn theo
ngón tay của thảo dân, thì sẽ xem thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các
quan cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng ngón tay của anh tu sĩ
kia, nhưng không ai có thể nhìn được vì bị chói mắt. Bấy giờ nhà vua
liền nổi giận ra lệnh chém đầu anh tu sĩ vì cho rằng anh ta đã dám
đánh lừa mình. Bấy giờ vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua và thưa
rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi xem bằng được Thiên Chúa. Nhưng mặt
trời kia chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ
còn không thể xem được, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên
Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì
Ngài thiêng liêng vô hình, nên người ta không thể xem thấy Ngài bằng mắt
thịt, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi”
2)
TIN VÀO CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU :
Có một gia đình kia.
Bà vợ rất sùng đạo, luôn dạy con cái giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con
đi lễ nhà thờ. Trái lại, ông chồng lại không tin vào Thiên Chúa và luôn miệng
nhạo báng những hành vi thờ phượng của vợ. Dù sống giữa hai niềm tin đối kháng
nhau của bố mẹ, cậu con trai duy nhất của họ vẫn luôn yêu mến và tỏ lòng hiếu
thảo với hai cha mẹ. Ngày nọ, đứa con mắc bệnh hiểm nghèo, các bác sĩ bệnh viện
cũng vô phương cứu chữa. Khi biết mình sắp chết, cậu bé đã hỏi bố rằng:
"Bố ơi, bác sĩ nói con sẽ không còn sống được mấy ngày nữa! Vậy con xin bố
hãy nói cho con biết, con phải tin theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì sẽ
chẳng có thiên đàng, chẳng có Thiên Chúa và sau này cũng chẳng có bố mẹ để yêu
thương và bảo vệ con ! Còn tin theo mẹ, thì con sẽ có Thiên Chúa là cha
nhân lành ban thưởng hạnh phúc thiên đàng cho con, và sau này con cũng hy vọng
sẽ được gặp bố mẹ mãi mãi.
Ông
bố nghe con nói mà nước mắt lưng tròng. Ông ôm con và nói: "Con hãy tin
theo mẹ của con đi nhé". Cậu bé lại nói: "Nhưng nếu bố không tin
giống như mẹ, thì làm sao con có thể gặp được bố trên thiên đàng được?"
Trước câu nói đơn sơ chân thành của con, ông bố đã nói với con : « Bố
cũng tin giống như mẹ của con. Sau này cả gia đình chúng ta sẽ gặp nhau trên
Thiên Đàng con nhé ». Kể từ ngày đó, ông đã hoàn toàn thay đổi lối sống để
trở thành người tín hữu đạo hạnh với hy vọng sau này cả gia đình sẽ được sống
hạnh phúc bên nhau mãi mãi.
3) DẤN THÂN ĐI THEO CHỦ TƯỚNG :
Trận chiến tranh giữa hai
bên là nước Pháp và liên minh hai nước Ý và Áo đầu năm 1796 đã kết thúc với
chiến thắng của Pháp vào ngày 17/11/1796 như sau :
Đại tướng Bonaparte đã
đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến quân địch. Trong lúc
trận thế căng thẳng, đại tướng Bonaparte liền ra lệnh cho quan Pháp xung phong đi
qua cây cầu để sang bờ bên kia. Nhưng trước họng súng của quân thù, không một
người lính nào dám tuân lệnh để xung phong tiến lên thành cầu ! Đại tướng liền
xuống ngựa, giựt lấy lá cờ dẫn đầu của người lính cầm cờ và ông vừa tiến lên thành
cầu vừa hô to : ”Ai yêu tổ quốc thì đi theo ta”. Nhưng rồi khi ngó
lại, ông thấy trên cầu chỉ có một mình với lá cờ bị rách tơi tả do đạn của quân
địch. Trong lúc nguy cấp, bỗng xuất hiện một cậu bé 13 tuổi vừa đánh trống thúc
quân vừa hô xung phong và tiến lên cầu đi theo đại tướng. Quân sĩ thấy vậy liền
ào ào xung phong theo sau lên cầu sang bên kia sông và đại tướng Bonaparte đã toàn
thắng trận chiến đầy cam go chấm dứt cuộc chiến tranh.
Tám năm sau, khi Bonaparte
đã lên ngôi lấy tên là hoàng đế Napoléon, có dịp trở lại chiến trường xưa và
được mọi người đón rước linh đình. Hoàng đế Napoléon ngỏ ý muốn gặp lại cậu bé
Vidal bấy giờ đã được 20 tuổi, và đang đóng quân tại địa phương.
Viên sĩ quan tùy tùng báo
cáo cho biết cậu lính trẻ đã được trưởng đơn vị cho nghỉ phép về nhà đưa đám
tang mẹ mới qua đời. Hoàng đế Napoléon liền bỏ mọi lễ nghi, cùng đoàn người lên
xe đến làng của Vidal. Đến nơi vừa kịp lúc di quan đến nghĩa trang. Hoàng đế
liền cùng các quan xuống xe đi bộ theo sau quan tài đến tận huyệt mộ. Tại đây
ông đã nói mấy lời phân ưu với Vidal trước khi hạ huyệt. Rồi Hoàng đế ngỏ
ý muốn đi chung với cậu trên đường từ nghĩa trang về làng. Khi Vidal từ chối
không dám, Hoàng đế Napoléon đã nói với cậu như sau: « Tám năm trước
con đã liều chết xung phong theo ta đi lên con đường chết, nay con hãy cho
ta đi chung với con trên con đường sống để chia sẻ nỗi buồn với con »
(x. Những tia sáng).
4) NGƯỜI BỒNG ẴM CHÚA KI-TÔ :
Thỉnh thoảng trong các
bức tranh thánh, chúng ta lại bắt gặp một người đàn ông trung niên cao lớn có
chòm râu rậm ẵm đứa trẻ lội qua sông. Đứa bé đó chính là Chúa Hài Đồng, còn
người đàn ông kia là thánh CHRISTOPHER, có nghĩa Người bồng ẵm Chúa Ki-tô, dựa
theo truyền thuyết sau đây:
Christopher là một
người khổng lồ gốc Canaan có chiều cao 2.3m. Tên ông là RE-PRO-BUS, nghĩa là kẻ
bơ vơ, bị xã hội ruồng bỏ. To cao như vậy nhưng ông lại có ước vọng được phục
vụ một vị vua vĩ đại. Ông đã tìm đến một ông vua được ca tụng là xuất chúng,
nhưng sau đó ông đã phát hiện ra ông vua này lại sợ quỷ Satan. Thế là ông bỏ rơi
vua để đi tìm Satan. Tìm thấy quỷ Satan rồi, ông quyết tâm phục vụ cho hắn. Nhưng
rồi ông lại phát hiện ra quỷ lại sợ Chúa Giê-su. Ông bèn bỏ Satan lang thang đi
tìm Chúa Giê-su. Theo hướng dẫn của một tu sĩ, Re-pro-bus đã làm công việc đưa
mọi người vượt qua một khúc sông nước chảy siết nguy hiểm. Vị tu sĩ khuyên ông nếu
làm việc tốt này sẽ có ngày gặp được Chúa
Giê-su.
Từ đó, ông khổng lồ Re-pro-bus
hằng ngày đều miệt mài cõng người sang sông. Một hôm ông đưa một bé trai đi qua
sông. Tuy bé người nhưng em lại nặng như chì, khiến ông khổng lồ vốn rất khỏe nhưng
cũng bị mệt bở hơi tai. Khi được hỏi thì em nhỏ cho Re-pro-bus biết ông đang
cõng Chúa Giê-su với sức nặng của cả thế giới. Nói xong, Chúa Giê-su liền biến
mất.
Từ ngày được gặp Chúa
Giê-su, anh chàng khổng lồ Re-pro-bus đã trở thành Christophoros (kẻ mang vác
Chúa), hay cũng gọi là Christopher. Từ đây ông cũng bắt đầu rao giảng về Chúa
để đưa nhiều con chiên về với Chúa. Hoàng đế La Mã De-ci-us (249-251) khi đó quyết
tâm đàn áp Thiên Chúa giáo nên đã truyền bắt Christopher bỏ tù tra tấn và cuối
cùng xử tử ngài.
Từ đó thánh
Christopher trở thành vị thánh bảo trợ đặc biệt cho các du khách và binh sĩ khi
ra trận. Cả đời ngài đã đưa người qua sông an toàn nên từ Âu sang Á, những
người lữ hành thường mang theo sợi dây chuyền có hình thánh Christopher. Xe cộ
du lịch cũng hay treo tượng ảnh của ngài để xin phù hộ cho đi đường bình an.
Thánh Christopher đã
nâng đỡ Chúa Giê-su bằng bốn cách: Trên vai khi cõng Chúa đi qua sông; Trong cơ
thể khi chịu sự tra tấn của nhà vua; Trong tâm khảm khi tận tuỵ phụng sự tha
nhân với lòng mến Chúa; Và còn bằng môi miệng khi rao giảng về Chúa cho mọi
người. Ngày nay mỗi tín hữu chúng ta đều có thể trở thành một “Christopher –
người mang vác Chúa”, nếu chúng ta quyết tâm tin yêu phụng sự Chúa và chuyên
cần làm việc thiện để phục vụ tha nhân noi gương thánh Christopher.
3. SUY NIỆM :
1) CHẲNG AI THẤY THIÊN CHÚA BAO GIỜ :
Chẳng ai có thể thấy được Thiên Chúa vì Ngài là đấng thiêng liêng vô hình. Nhưng người ta có thể cảm nghiệm về sự hiện
hữu của Thiên Chúa bằng những cách khác. Giống như mắt ta không thể nhìn sợi
giây nào có điện hay không, nhưng ta có thể nhận biết có điện bằng nhiều cách
khác. Chẳng hạn khi cả xóm đang tối thui vì cúp điện đột nhiên có điện lại, là
đám trẻ con liền la to: «Có điện rồi». Tại sao lũ trẻ lại nhận ra có
điện lại là do chúng thấy bóng đèn cháy sáng, quạt quay mát, tivi có hình ảnh
v.v… Cũng vậy đối với Thiên Chúa. Tất cả những gì đang hiện hữu và hoạt động nơi
bản thân và môi trường chung quanh chúng ta đều chứng tỏ có Thiên Chúa. Vì nếu không
có Thiên Chúa thì sẽ chắc chắn sẽ không thể có những bằng chứng ấy.
2)
AI THẤY THẦY LÀ THẤY CHÚA CHA :
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu hỏi của tông đồ Phi-líp-phê muốn
được Thầy Giê-su chỉ cho thấy mặt Chúa Cha, nên đã được Người đáp ứng như sau:
“Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy
ư ?”. Thực vậy, "Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên
Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha. Chính Người đã tỏ cho chúng ta
biết” (Ga 1,18). Con người tuy có thể nhận biết có Thiên Chúa qua công trình
sáng tạo và lịch sử cứu độ của Ngài, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt của Ngài.
Chính Chúa Con là Chúa Giê-su đã tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của
Thiên Chúa nơi bản thân mình: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Đức Giê-su đã giúp nhân loại biết về Chúa Cha. Người
chính là con đường độc nhất dẫn đưa nhân loại đến với Chúa Cha như Người đã khẳng
định: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).
Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên
hữu hình khi từ trời xuống thế mặc lấy thân xác phàm nhân (x. Ga 1,14).
Người nên giống loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội (x. Dt
4,15). Chính nhờ Đức Giê-su mà loài người chúng ta mới biết « Thiên Chúa
là Tình Yêu » (1 Ga ,16); Thiên Chúa là Một theo Bản Tính, nhưng là Ba
theo Ngôi Vị (Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi).
3) THẦY LÀ
ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG :
Khi nghe Đức Giê-su cho biết Người sắp về trời để dọn chỗ cho các môn đệ; rồi
Người sẽ trở lại để đem các ông lên trời, Tô-ma thắc mắc « Chúng con không
biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi ? Đức Giê-su trả lời:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến
với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
- Là Con đường: Đức Giê-su vừa là mục tử dẫn đường cho
đoàn chiên tín hữu lên trời, mà Người còn là con đường, là chiếc cầu duy nhất dẫn
đưa loài người lên trời.
- Là Sự Thật: Đức Giê-su đến để bày tỏ sự thật về
Thiên Chúa cho chúng ta (x. Ga 12,45). Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,10); “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).
- Là Sự Sống: Đức Giê-su đã trải qua sự chết và đã
sống lại vinh quang, để mở đường sống cho những ai tin và chấp nhận đi con
đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”, như thánh Phao-lô viết: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta
cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến
bánh rượu trở thành Mình Máu Người và mời gọi tín hữu lãnh nhận để cũng được sống
đời đời với Người.
4) TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG ĐƯA THA NHÂN LÊN TRỜI:
- Mỗi tín hữu phải sống thế nào để cũng nói được như thánh Phao-lô:
“Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1, 21). “Tôi sống, nhưng không
còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Thánh Phê-rô cũng đã khẳng định trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau:
“Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá
ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn
cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được
ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ”
(Cv 4,11-12).
- Ngày nay Đức Giê-su đã lên trời với Chúa Cha, và đã mở ra con đường
lên trời là đạo công giáo. Cuộc đời của Đức Giê-su chính là con đường duy
nhất dẫn đưa chúng ta lên trời. Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ nhận
biết thánh ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì. Một khi biết lắng nghe và
thực hành Lời Chúa, chúng ta sẽ đi Con Đường Giê-su là « đường hẹp,
leo dốc và ít người muốn đi », là đường « Bỏ mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo chân Chúa », là đường « mến Chúa yêu người »,
đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang »… Rồi chúng ta cũng sẽ
trở thành con đường để đưa tha nhân cùng lên trời với chúng ta. Mỗi lần dự lễ
và rước lễ sốt sắng, chúng ta sẽ được Chúa Giê-su ban sự sống là ơn Thánh Thần
để giúp ta hăng hái chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất.
4.
THẢO LUẬN : Bạn có đồng ý với lập luận như sau: “Đạo nào cũng tốt.
Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần phải
truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống đạo làm người
là đủ”? Tại sao ?
5.
NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất
lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mệnh truyền giáo mà Chúa đã trao
cho Hội Thánh trước khi về trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ
mệnh truyền giáo trước hết phải được thực hiện cho những người thân
quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con,
rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm
khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của
Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp
chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành trong
đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác
thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng
sẽ ngày một nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa
và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON
LM ĐAN VINH -
HHTM