Suy Niệm Lời Chúa
Chúa Nhật IV Phục Sinh
ĐỂ NÊN MỤC TỬ NHÂN LÀNH NOI
GƯƠNG ĐỨC GIÊSU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 10, 1-10
(1)
“Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên,
nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2)
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở
cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên từng con, rồi
dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi
theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo
người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người
lạ. (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu
những điều Người nói với họ. (7) Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi
bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước
tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai
qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được
đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm
nay giới thiệu Đức Giê-su vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên:
- LÀ MỤC TỬ
THẬT SỰ CỦA DÂN ÍT-RA-EN: Vì Người đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên
và được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người
được đàn chiên là dân chúng nghe theo. Còn các đầu mục Do thái chỉ là
người lạ, nên chiên chạy trốn và không đi theo họ.
- LÀ CỬA CHO
CHIÊN RA VÀO: Các luật sĩ và Biệt phát không tin Đức Giê-su và không
được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng
nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá
huỷ đàn chiên. Còn Đức Giê-su đến để đem lại cho chiên sự an toàn, tự
do, lương thực và sự sống dồi dào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ràn chiên: hay
chuồng chiên, là hình ảnh quen thuộc của dân Do thái vốn là một dân du
mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo hội là Nước Trời hay
Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi
chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào. Ai muốn được công
nhận là mục tử đích thực của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giê-su
mà vào Hội Thánh. Họ phải được Người tuyển chọn và trao sứ mệnh
chăn chiên. Còn kẻ trèo qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay
Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục tử giả hiệu hay hạng trộm cướp. +
Người giữ cửa mở cho anh ta vào: Đức Giê-su chính là Mục tử
đích thực, vì Người đã được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả làm
chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1, 31-34). + Và
chiên nghe tiếng của anh: Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo
một chủ chăn duy nhất, như các Tông đồ đã nghe lời và đi theo một
mình Đức Giê-su (x. Ga 1, 35-51). + Anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng
ra: Trong ràn có nhiều đàn chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa
đàn chiên vào ràn, rồi đến sáng sẽ lại đến dẫn đàn chiên ấy ra khỏi
chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho chúng ăn cỏ uống nước. Đây là kiểu
nói cường điệu. Thực ra các mục tử chỉ đặt tên và gọi tên một con
chiên đầu đàn thôi và các con khác sẽ theo sau con chiên đầu đàn này
ra ngoài. Ở đây Đức Giê-su nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của Người
là vị Mục tử tốt lành, khác với các Pha-ri-sêu và kinh sư là những
kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.
- C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu
này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giê-su: Khi đã kéo Môn đệ ra
khỏi thế gian (x. Ga 15, 19). Người đi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ
non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói và chỉ đi theo Mục
tử Giê-su, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho họ (x. Ga 14, 10). +
Chúng sẽ không theo người lạ,..: Người lạ là những kẻ không do
Thiên Chúa sai đến, nhưng đã leo rào mà vào. Người lạ ám chỉ các
đầu mục dân Do thái đương thời. Vì họ không phải là mục tử đích
thực, nên chiên đã không đi theo họ mà trái lại chúng còn lẩn trốn họ
nữa.
- C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả
không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức Giê-su phải giải thích rõ ràng:
Người chính là cửa chuồng chiên tức là cửa ngõ để vào Nước Trời, mà
ai muốn vào Nước Trời ấy đều phải tin Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều
là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ: Mọi kẻ đến trước
ở đây không nhằm chỉ các ngôn sứ Cựu Ước, mà chỉ nhắm tới những kẻ
không được Thiên Chúa sai như các pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23,
1-8). Họ bị Đức Giê-su quở trách là bọn đạo đức giả, cản đường
người khác gia nhập Nước Trời, có lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn
dường đui mù và đã từng giết hại nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt
23, 13-32).
- C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu: Đức
Giê-su là con đường người ta phải đi ngang qua để được vào Nước Trời.
Tương tự như câu: “Thầy là đường…Không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy” (Ga 14, 6). + Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là được tự do đi
lại. + Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giê-su, các tín hữu sẽ
được cứu khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng
tự do đích thực (x. Ga 8, 31-36). Nhờ Đức Giê-su, họ sẽ tìm được của
nuôi thân là Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4, 14; 6, 35). + Kẻ
trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám
chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ đã
leo rào mà vào chuồng chiên. Họ chỉ đi tìm lợi ích cho bản thân hơn
là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23,4-7). + Tôi đến cho chiên được sống
và sống dồi dào: Nhờ có lương thực là Lời Chúa và Thánh
Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và có được
sự sống đời đời.
4. CÂU HỎI:
1) Ràn chiên nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều
gì? Cửa vào ám chỉ ai? 2) Đức Giê-su là Mục Tử thực sự của đoàn
chiên vì đã được Gio-an Tẩy Giả là người giữ cửa làm chứng như thế
nào? 3) Đàn chiên chỉ nhận biết tiếng nói và đi theo ai? Phải chăng
mọi con chiên đều được đặt tên và mỗi buổi sáng người mục tử phải
gọi tên từng con chiên để dẫn chúng ra khỏi chuồng? 4) Ý nghĩa của
câu: anh ta đi trước và chiên đi theo sau… là gì? 5) Tại sao đàn chiên
không nghe theo người lạ? Người lạ nói đây ám chỉ những ai? 6) Những
kẻ đến trước được liệt vào hạng trộm cướp nói đây ám chỉ ai? Tại
sao? 7) Đức Giê-su tự nhận mình là cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng
chiên phải đi qua, giống như nơi khác Người đã tự ví mình là gì? 8) Kẻ trộm
đầu mục Do thái khác với vị Mục Tử tốt lành là Đức Giê-su thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LÒI CHÚA: “Tôi là cửa. Ai qua tôi
mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”
(Ga 10,9)
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC GIO-AN PHAO-LÔ II – HÌNH ẢNH MỤC TỬ
NHÂN LÀNH:
Ngày 27/04/2014,
Đức Thánh Cha Gio-anPhaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh.
Người là một người môn đệ đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh
Giê-su. Một vị mục tử luôn làm việc: Cho dù tuổi đã cao lại thêm nhiều bệnh
tật, thế mà ngài vẫn luôn hiện diện bên đàn chiên, vẫn lên tiếng gọi đàn chiên,
vẫn là chỗ dựa vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời,
Đức tổng Giám mục Lê-ô-nar-do San-dri, thứ trưởng Ngoại giao của Toà Thánh đã
nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi trở thành những đứa con mồ
côi”.
Tại sao
người ta lại tỏ lòng thương tiếc một cụ già như thế? Có phải người ta ngưỡng mộ
Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền thế không? Thưa không phải thế. Người ta
thương tiếc ngài như một mục tử đã sống hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh
giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh
này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ
quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng
đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương.
Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con
chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi
thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài
trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến
với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
2) TINH THẦN MỤC TỬ CỦA MỘT BÀ MẸ:
Trong cuốn tự
thuật, DIM-MY CÁC-NÂY (Jimmy Cagney) một nam diễn viên nổi tiếng ở
HÔ-LI-GÚT (Hollywood) đã thuật lại câu chuyện cảm động về bà mẹ của
ông. Câu chuyện xảy ra vào thời thơ ấu của Các-nây khi mẹ ông nằm thoi
thóp chờ chết. Chung quanh giường có bốn anh em trai và một cô em gái
út duy nhất. Vì bị tai biến mạch máu não, nên bà mẹ của Các-nây
không thể nói thành tiếng. Sau khi bà cố lần lượt hôn năm đứa con, bà
liền giơ cánh tay phải còn cử động được lên. Dim-my kể lại những gì
đã xảy ra như sau “Mẹ tôi dùng ngón tay phải chỉ vào anh con trai
trưởng rồi lại chỉ vào ngón tay trỏ của bàn tay trái bị tê liệt của
bà, rồi bà lần lượt chỉ vào từng người trong mấy anh em chúng tôi,
mỗi người được tượng trưng bằng một trong bốn ngón tay trái. Riêng
ngón cái thì bà chỉ vào đứa em gái út Din-ni (Jeannie) mới ba tuổi.
Bà cầm ngón cái ấy để vào giữa lòng bàn tay và ép bốn ngón tay
kia lên ngón cái ấy. Cuối cùng bà dùng bàn tay phải vỗ nhẹ lên nắm
đấm của bàn tay trái”. Dim-my nhận xét rằng cử chỉ của mẹ ông lúc
đó thật tuyệt vời. Năm anh em hiện diện đều hiểu được ý nghĩa mà bà
muốn diễn tả: Bốn anh em trai phải thay bà để che chở và giúp đỡ cho
cô em gái út bé nhỏ sau khi bà qua đời. Đó là một cử chỉ đầy ý
nghĩa mà không lời nói nào có thể diễn tả hay hơn được. Cử chỉ ấy
của bà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ không bao giờ phai mờ trong tâm
khảm của anh em chúng tôi, khiến chúng tôi luôn giữ lời trăn trối của
bà”.
3) ĐỨC TÍNH HY SINH CỦA NGƯỜI MỤC TỬ:
Có hai vợ chồng
trẻ làm nghề đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên
chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước quay về nhà. Thình
lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một
dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bị bể vỡ tan
tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy
mỗi phút giây qua đi lại trở nên mạnh mẽ hơn. Sức lực của anh chồng xem ra mỗi
lúc đuối dần khi phải một mình bơi sải vừa để thoát thân lại vừa phải cứu vợ.
Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã sắp cạn kiệt, nên đã buông tay ra để
mặc cho dòng nước lũ cuốn đi. Chị chỉ kịp gào thét trong cơn mưa giông và nước
lũ: "Anh phải sống để nuôi dạy đàn con anh nhé!".
4) MỤC TỬ CÓ SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI SỐ PHẬN ĐỜI
NGƯỜI:
Dương Ân Điển là
đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ
nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm
1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ
không thể co duỗi.
Thế mà 25 năm sau,
đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh
bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là
thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay
đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương
Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã
cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho
cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn
chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và
lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên
của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27).
Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một
tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến
đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc
của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương
của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé
tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối
với chúng ta, những con chiên của Người.
5) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CỬA BẢO VỆ ĐÀN CHIÊN:
George Smith kể
lại một loại chuồng chiên khi đi du lịch ở Đông phương: Bấy giờ ông cùng đi với
một người chăn chiên. Thấy một chiếc chuồng ông liền hỏi người chăn chiên:
- Đó có phải là
chuồng chiên không?
Người ấy đáp:
- Dạ, phải.
Rồi Geoge nói:
- Tôi thấy chỉ có
một lối đi vào.
Giơ tay chỉ khoảng
trống ở hàng rào, người ấy đáp:
- Vâng, ở đàng kia
là cái cửa.
Ông Geoge rất ngạc
nhiên bảo:
- Nhưng ở đó đâu
có cửa?
Người chăn chiên
đáp:
- Dạ, tôi là
cửa.
Geoge chợt nhớ câu
truyện trong Tin Mừng Gio-an nên tiếp tục hỏi người chăn chiên:
- Anh muốn nói gì
khi bảo chính anh là cái cửa?
Người chăn chiên
giải thích:
- Chiên vào chuồng
xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và sẽ không có con chiên nào có thể đi ra
hoặc con chó sói nào có thể đi vào chuồng nếu không nhảy qua người tôi.
3. SUY NIỆM:
Chúa nhật IV Phục
Sinh được gọi là Chúa nhật lễ Chúa Chiên lành. Tin Mừng Gio-an đề cập đến hình
ảnh quen thuộc của vùng Trung Đông: các mục tử, cửa chuồng chiên:
1) TÔI LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (Ga 10, 7):
- Mục tử là người
vào chuồng chiên ngang qua cửa chính, chứ không lén lút leo rào mà vào chuồng
(x. Ga 10, 1-2). Người giữ cửa quen biết mục tử nên sẵn sàng mở cửa, và chiên
cũng quen biết mục tử quen với giọng nói của anh, nên dễ dàng phân biệt anh với
người lạ hay kẻ trộm (x. Ga 10, 3-5). Mục tử nhân lành yêu thương chiên, biết
tên và âu yếm gọi từng con chiên trong đoàn ra ngoài. Mục tử sẽ đi trước dẫn
đường, các con chiên sẽ yên tâm theo sau, vì chúng biết đang đi theo ai và
người chủ chiên sẽ dẫn chúng đi đâu. Hầu như có một sự hiểu biết cảm thông và
gần gũi giữa đoàn chiên và người mục tử.
- Trong lịch sử
dân Ít-ra-en, các vua chúa và đại tư tế được gọi là mục tử. Danh hiệu Mục Tử Nhân
Lành thường được dành riêng để gọi Đức Chúa. Qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa
đã dẫn đưa con dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ, qua sa mạc 40 năm để về miền Đất
Hứa dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu đến muôn đời. Đức Chúa như người mục
tử đã gắn liền số phận với đàn chiên là dân Ít-ra-en. Hình ảnh mục tử đó chỉ
được rõ nét nơi Đức Giê-su trong thời Tân Ước sau này. Hôm nay, Đức Giê-su
tuyên bố Người là Mục Tử nhân lành. Khác với các đầu mục Do thái là bọn người
chăn thuê. Chúng chỉ biết lợi dụng đàn chiên để tìm tư lợi, Mục Tử nhân lành
Giê-su yêu thương đàn chiên, hiểu biết từng con, luôn phục vụ đàn chiên và sẵn
sàng thí mạng sống bảo vệ đàn chiên khỏi bị sói dữ cắn xé. Đáp lại, con chiên
cần nghe tiếng chủ chiên, yêu mến và vâng lời chủ chiên. Đức Giê-su tóm lại sứ
mệnh mục tử của Người như sau: “Kẻ trộm đến chỉ để ăn trộm, giết hại và phá
hủy. Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
2) TÔI LÀ CỨA CHUỒNG
CHIÊN (Ga 10, 9) :
Sau khi đã tự
mô tả là một người mục tử nhân lành, Đức Giê-su lại nhận mình là cửa chuồng
chiên. Hôm nay Đức Giê-su tuyên bố: « Tôi là cửa cho chiên ra vào… Tôi
là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và
gặp được đồng cỏ » (Ga 10,7.9).
Đức Giê-su chính là mục tử chăn dắt đoàn chiên là các tín hữu. Khác với kẻ
trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Đức Giê-su đến để cho chiên được sống,
và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
- Cửa chuồng
chiên là lối cho chiên ra vào chuồng để được bảo vệ an toàn và được sống dồi
dào. Chỉ người nào đi qua Cửa chuồng chiên Giê-su tức là Hội Thánh thì người ấy
mới là mục tử thực sự của Thiên Chúa và mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài ban
cho (x. Ga 10,9). Thánh Gio-an Kim Khẩu nói: “Khi Đức Giê-su đưa chúng ta đến
với Chúa Cha, Người nhận mình là Cửa. Khi Người săn sóc dưỡng nuôi ta, Người
nhận mình là Mục Tử”. Cửa Giê-su cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật : Mục
tử giả sẽ không dám đi ngang qua Cửa Giê-su để vào chuồng chiên. Chớ gì Hội
Thánh có nhiều mục tử thực sự của Chúa Giê-su, có tình yêu thương thể hiện qua
lối sống gần gũi « có mùi chiên », biết tên từng con chiên và mang lại
cho chiên của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể đem lại sự sống dồi dào.
3) NGUYÊN NHÂN THIẾU
ƠN THIÊN TRIỆU TRONG CÁC NƯỚC TÂN TIẾN ?
a) Hiện nay
nhiều nơi trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ, đang thiếu trầm
trọng ơn gọi linh mục tu sĩ. Nhiều nhà thờ không có linh mục nên phải
đóng cửa hoặc bán đi để trả nợ. Cũng có nhiều dòng tu bị giải thể
vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa.
b) Hiện
tượng thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ thường do mấy nguyên nhân như sau:
- Một là vì
các đôi vợ chồng trẻ do thói ích kỷ nên không muốn sinh nhiều con, để dành tiền
bạc và thời gian phục bụ cho các nhu cầu riêng của mình.
- Hai là các
người trẻ hôm nay luôn chịu ảnh hưởng của lối sống thực dụng và
hưởng thụ: chỉ biết tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, các
nhu cầu ích kỷ bản thân… và mất đi cảm thức đức tin.
- Nhưng nguyên
nhân quan trọng nhất có lẽ là do người lớn đã không nhiệt tâm cổ võ
cho ơn thiên triệu và không quảng đại hiến dâng con mình cho Chúa và Hội
Thánh.
- Mỗi Giáo
xứ phải trở thành vườn ươm trồng ơn thiên triệu: Đức Thánh Cha Gio-an
Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 đã nhắc đến việc cần phải
làm là tạo một môi trường thuận lợi cho hạt giống ơn gọi dễ phát
triển là các giáo xứ. Ngài nói như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo
xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu
nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người
nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại,
không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý
nghĩa. Họ cần được Hội Thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để
nghe lời Người và theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ
mệnh cứu độ của Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những
tiếng kêu than của bao người đói khát chân lý hay đang cần được công
lý bảo vệ. Hội Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận
lớn lao là xây dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình
thương và hạnh phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người
bạn dám sống niềm tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững
trước sức mạnh của các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê bất chính”.
4) LÀM GÌ ĐỂ GIÚP
HỘI THÁNH THÊM NHIỀU LINH MỤC TU SĨ ?
a) Hỗ trợ của
các bậc cha mẹ trong gia đình: Hiện nay sở dĩ thiếu ơn gọi một phần
cũng là do lỗi của chúng ta chưa thiết tha cầu xin Thiên Chúa sai thêm
thợ gặt đến, chưa quyết tâm trở thành chứng nhân của Chúa, chưa quảng
đại dâng con và khuyến khích chúng quảng đại phục vụ Chúa và Hội
Thánh trong bậc tu trì.
b) Vai trò của
gương sáng: Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nói về các mục tử trong Hội Thánh như
sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng
vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục
vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Đức Giáo Hoàng đòi hỏi
linh mục như sau : “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi
con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người
chưa biết Chúa, hoặc đã biết Chúa nhưng chối bỏ đức tin, cố tình loại Chúa ra
khỏi cuộc đời mình… Các cha xứ phải đi tìm kiếm họ để an ủi, chữa lành và giúp họ
trở về với Chúa.
c) Gây ý thức
về tầm quan trọng và nhiệm vụ ươm trồng ơn thiên triệu : Mỗi người chúng
ta cần cầu nguyện cho mình sống đúng vai trò là linh mục, là quý chức giúp việc,
là chồng vợ, cha mẹ và con cái trong gia đình.
d) Quảng đại
đóng góp tinh thần vật chất cho chủng viện : Các gia đình, hội đoàn, giáo
xứ… hãy quảng đại để tích cực cộng tác với Hội Thánh ươm trồng ơn thiên triệu và
có thêm nhiều linh mục tu sĩ hiến thân chăm sóc đàn chiên và loan báo Tin Mừng
cho an hem lương dân chưa nhận biết Chúa, vì « lúa chín đầy đồng mà thiếu
thợ gặt ».
4. THẢO LUẬN:
Theo bạn mục tử tốt như lòng Chúa mong
ước hôm nay cần có những phẩm chất nào : khôn ngoan, đạo đức, có bằng cấp
cao, thông thạo ngoại ngữ, đàn hay hát giỏi, giảng hấp dẫn, nhiệt
tình tông đồ, sống đơn giản, dấn thân hy sinh, chu toàn bổn phận, thái
độ khiêm tốn, hiền hòa, vui vẻ, tiết độ, trung thực, vị tha, đúng
đắn trong giao tiếp, quan tâm đến giới trẻ, có lòng thương xót? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu.
Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh trong đời
phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh
mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim
mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người
đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin
vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con
gặp được chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết chăm
chỉ rao giảng Lời Chúa, có sức làm nóng lên đức tin yếu kém và làm
bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm
đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho
chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa
xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
- HHTM