Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần III Phục Sinh
“Chính
tôi là bánh trường sinh”
Lời Chúa: Ga
6, 30-35
30 Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi
thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na
trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời."
32 Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê
đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh
bởi trời, bánh đích thực,33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời
xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian."
34 Họ liền nói:
"Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy."35
Đức Giê-su bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không
hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
Suy Niệm:
Trong bốn
ngày liên tiếp, từ hôm nay đến thứ sáu, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại toàn bộ
lời của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh” (Ga 6, 30-58). Bản văn Tin Mừng theo
thánh Gioan về “Bánh Trường Sinh” này có thể được chia làm 3 phần: phần 1 (c.
30-40): bài Tin Mừng của ngày thứ ba và thứ tư; phần 2 (c. 41-51): bài Tin mừng
của ngày thứ năm; và phần 3 (c. 52-58): bài Tin Mừng của ngày thứ sáu; và có cấu
trúc song song luân phiên như sau:
Phần 1
(c. 30-40)
|
Phần 2
(c. 41-51)
|
Phần 3
(c. 52-58)
|
A (c. 30-31)
vấn nạn
|
A’ (c. 41-42)
vấn nạn
|
A’’ (c. 52)
vấn nạn
|
B (c. 32-40):
lời đáp
|
B’ (c. 43-51)
lời đáp
|
B’’ (c. 53-58)
lời đáp
|
1. Những vấn
nạn
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, mỗi đoạn đều
được bắt đầu bằng một vấn nạn của người Do Thái
Ø Khi Đức Giê-su nói: “Công trình của Thiên Chúa, là các
ông tin vào Đấng Người sai đến” (c. 29). Họ chất vấn Đức Giê-su: “Ông làm được
dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?” (c. 30)
Ø Khi Đức Giê-su nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”; họ
nêu vấn nạn: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giuse đó sao?” (c. 42)
Ø Và khi Đức Giê-su nói: “Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính
là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Họ liền tranh luận sôi nổi với
nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (c. 52)
Các vấn nạn đều đòi hỏi những bằng chứng hiển nhiên
(khách quan, bên ngoài), thể lý và hữu hình, nghĩa là thuộc bình diện của “nhu
cầu”: nhìn dấu lạ, biết nguồn gốc và ăn đồ ăn. Những vấn nạn có thể được coi
như những lời lẩm bẩm, giống như Dân Chúa trong sa mạc đã lẩm bẩm, vì Đức
Giê-su nói với họ: “các ông đừng có xầm xì với nhau” (c. 43). Chúng ta đừng
quên, trong số những người nghe, có các môn đệ; và trong số họ, có những môn đệ
sẽ bỏ Ngài ra đi sau khi nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi?” Trong
mức độ nào đó, lời “lẩm bẩm” này còn nghiêm trọng hơn những vấn nạn của người
Do Thái, vì phản ứng như thế là từ chối đối thoại. Những vấn nạn này luôn tồn
tại trong lịch sử và ngày nay vẫn còn rất thời sự.
Có lẽ chúng ta chỉ cầu nguyện được với đoạn Tin Mừng
này, nếu chúng ta ở mức độ nào đó, nhận những vấn nạn làm của mình, hay đó cũng
là những vấn nạn của chính chúng ta. Xin cho chúng ta có được kinh nghiệm thiết
thân, sự sống mỗi ngày của chúng ta được nuôi dưỡng bằng Bánh Hằng Sống, là Đức
Ki-tô. Chứ không phải là không phải là thấy, biết, hay ăn uống Đức Ki-tô một
cách vật chất.
2. Nhu cầu
và ước ao
Đoạn Tin Mừng theo thánh Gio-an khá dài về Bánh Hằng
Sống mở đầu và kết thúc với hình ảnh Manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na
trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (c. 31); “Đây
là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (c. 58) Xin cho chúng ta
cảm nhận được sự sống mới, khi “ăn” bánh từ trời xuống, là chính Đức Giê-su. Để
hiểu lời của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống, chúng ta cần phân biệt nhu cầu và
ước ao có nơi mỗi người chúng ta.
Thực vậy, con người không thể ăn bánh ăn mà lại, ngang
qua nhu cầu rất căn bản này, không ước ao sự hiện diện, không hướng tới sự
hiện diện. Chúng ta vẫn nói: “rượu ngon, phải có bạn hiền”. Ngang qua việc đón
nhận lương thực hàng ngày, con người chúng ta còn ước ao sự hiện diện nhân linh
(nhân linh nghĩa là điều thuộc riêng con người, điều thuộc về nhân tính); và
không chỉ sự hiện diện nhân linh, mà còn sự hiện diện thần linh nữa (ước ao
trọn vẹn thay vì dở giang, tuyệt đối/tương đối, mãi mãi/mau qua).
Ước mơ có được “thần lương” nói lên ước ao này, đó là
bởi vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nên không thể không
ước ao Thiên Chúa, dù ý thức hay không ý thức. Khi tạo dựng con người, Thiên
Chúa gieo vào nơi sâu thẳm của con người lòng ước ao. Ngài làm thế, chính là để
làm thỏa mãn; Thiên Chúa làm thỏa mãn ước ao của con người nơi Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta thử tưởng tượng: một quà tặng cho một người hoàn toàn không có ước ao
gì hay khao khát nào, thì chẳng có ý nghĩa gì, và không thể tạo ra niềm vui.
Lòng ước ao nơi con người là một khoảng trống mà chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy
được thôi.
Chính Đức Giêsu là bánh đích thực, là lương thực đích
thật đem lại sự sống. Bánh sự sống không phải là bánh ăn mãi không hết, cũng
không phải là thứ bánh cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử, không phải thứ
bánh ăn vào là no luôn, nhưng là căn tính của Đức Giêsu, là ngôi vị của Đức
Giêsu, mà người ta được mời gọi đích thân “cảm nếm”. Đây chính là điều mới mẻ
hoàn toàn so với Xuất Hành, với toàn bộ lịch sử cứu độ, lịch sử loài người.
Vì thế, lời của Đức Giêsu không thể dựa trên bất cứ
một bằng chứng nào, cho dù đến từ trời; Lời của Ngài vượt quá mắt phàm, vì
người ta chỉ thấy Ngài là con ông Giuse; và Lời của Ngài cũng quá chướng tai,
vì Ngài tuyên bố mình là lương thực đem lại sự sống đích thực cho con người. Đó
là vì Lời của Ngài chỉ có một “đối tác” duy nhất, có một chỗ vang vọng duy
nhất: đó là lòng ước ao (khác với nhu cầu). Ước ao là một chuyển động hướng đến
một Đấng Khác mà tôi không thể tạo ra được, và ước ao cũng là một chuyển
động hướng tới một ơn huệ mà tôi không thể tự ban cho mình. Thế mà, Bánh
Thánh Thể, là mình và máu Đức Kitô, nhằm làm no thỏa lòng ước ao của loài người
chúng ta, nhưng không bỏ qua cấp độ “nhu cầu”:
Ø Đó là bánh ngon và rượu ngon.
Ø Đó là sự hiện diện nhân linh và vừa thần linh, vì đó
là Đức Giê-su Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa.
Khởi đi từ bánh rượu (nhu cầu), giống như phép lạ bánh
hóa nhiều, nhưng cũng chính nơi bánh rượu, chúng ta được mời gọi tin tưởng,
hiểu biết, yêu mến, ở lại với một Ngôi Vị, là Đức Ki-tô, là Bánh Hằng Sống, để
sống sự sống đời đời mà Ngài thông truyền cho chúng ta ngay hôm nay.
Với mỗi vấn nạn, Đức Giêsu trả lời khá dài. Nhưng Ngài
không trả lời bằng cách đưa ra những bằng chứng, hay bằng những lí luận khúc
triết để bắt người ta phải cúi đầu khuất phục. Đó không phải là con đường hay
lí lẽ của lòng tin, bởi vì đối tượng của lòng tin, thì không thể thấy được. Đức
Giêsu chỉ nói điều mình là thôi. Bởi lẽ chân lí không có bằng chứng nào khác
ngoài chính mình; chẳng hạn như hương vị thơm ngon của trái soài không thể
chứng minh được, nhưng chỉ được thưởng thức trực tiếp mà thôi).
3. “Chính tôi là Bánh Trường Sinh”
Thay vì đòi ăn mãi, Đức Giêsu mời gọi dấn thân: làm
việc vì lương thực khác, đó là tin vào Ngài. Như xưa kia, Dân Chúa được mời gọi
đi từ Manna sang lựa chọn đặt niềm tin vào hành động của Thiên Chúa, tin vào sự
dẫn dắt của Môsê (x. Xh 14, 31). Tuy nhiên, đã chứng kiến một dấu lạ, họ còn
đòi một dấu khác lớn hơn (c. 30). Tin với điều kiện có một dấu lạ lớn hơn, đó
là thử thách Thiên Chúa, đó là ngụy biện, vì người ham muốn dấu lạ, là người
không có khả năng tin (c. 64). Sau này, họ cố ý đóng đinh Đức Giêsu và yêu cầu
Ngài xuống khỏi Thập Giá để họ thấy và họ tin. Đòi thấy hết rồi mới tin, sẽ tự
chuốc lấy sự hổ thẹn.
Được ăn bánh no nê, nhưng xét cho cùng bánh này không
đến trực tiếp từ trời, nhưng từ giỏ xách của một em bé (x. Ga 6, 8); vì thế, họ
đòi dấu lạ từ trời giống như Manna xưa kia (c. 30). Chúng ta được mời gọi nhận
ra và cảm nếm ơn sáng tạo, nhất là ơn lương thực, khi lắng nghe Lời Chúa trong
trình thật Sáng Tạo Bảy Ngày (x. St 1; và nên đọc Tv 104): những gì đến từ đất,
từ thế giới sáng tạo cũng là đến từ trời cao, từ Thiên Chúa. Ai không nhận ra
điều này, sẽ không có khả năng tin và nhận ơn huệ đến trực tiếp từ Thiên Chúa,
mà ơn huệ tuyệt đỉnh là Mình và Máu Đức Kitô:
Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc