Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh
ĐỨC GIÊ-SU MẶC KHẢI SỰ THẬT VỀ CHÚA CHA
I. HỌC LỜI CHÚA.
1. TIN MỪNG: Ga 14,1-12
(1) Lòng anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên
Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở.
Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.
(3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh
em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu,
thì anh em biết đường rồi. (5) Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được
đường ?” (6) Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và
là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. (7) Nếu anh
em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em
biết Người và đã thấy Người. (8) Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin
tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (9)
Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh
Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao
anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. (10) Anh không tin rằng
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy
nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở
trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh em hãy tin
Thầy, Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy. Bằng không,
thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy bảo thật anh
em: Ai tin vào Thầy, thì Người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy
làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến
cùng Chúa Cha.
2. Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc Ly,
Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã Môn đệ mà về trời với
Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên
trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người là con đường,
là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không
qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7).
Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với
Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa
sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Đừng
xao xuyến: Có lẽ sau khi nghe Thầy cho biết
sắp phải chịu tử nạn (x. Ga 12,32-33), có một kẻ trong Nhóm Mười Hai sẽ
phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38),
thì các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản, nên Đức Giê-su
đã phải lên tiếng để động viên tinh thần của các ông. +
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên
Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ
cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là
trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo
một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì câu này nghĩa là
trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu
hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là
trên thiên đàng sẽ có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. +
Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ
để các ông khỏi thất vọng.
- C 3-4: + Đi dọn
chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về
trời một mình, mà Người sẽ quay lại đón các ông lên trời, để các
ông cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại:
Khi nào Người trở lại ? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo
hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế Chúa Giê-su sẽ lại đến
phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các Môn đệ được hưởng hạnh
phúc thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự
đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của từng cá nhân Môn đệ.
Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các
Môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện
diện với các Môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ
ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18).
Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên
đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).
- C 5-7: + Chúng
con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường ?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ
mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu
nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác
đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36;
8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống:
*LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ
đất lên trời, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ
THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông
chúng ta qua các Ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã
phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về
mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu
phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt
17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống
sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ
Người mới có thể ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga
3,36; 10,28). Tín hữu mang nơi mình mầm sống vĩnh cửu phải tiếp tục
đón nhận sự sống ấy qua các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập,
và cố gắng góp phần làm phát triển sự sống đó cho đến khi đạt tới
sự sống sung mãn với Chúa Cha ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân
loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu
không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi
nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào
khác ban ơn cứu độ ngoài Danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết
Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy
Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng
vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng
kể như đã thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su là Em-ma-nu-en nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng
Chúa Cha (x Mt 17,5) và vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi
và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
- C 8-10: + Xin tỏ
cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê đòi
Đức Giê-su chỉ cho xem Chúa Cha như Mô-sê ngày xưa đã xem thấy Đức
Gia-vê trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết ngày nay Thiên Chúa sẽ
không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức
Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ
Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là chính Đức Giê-su (x. Ga 1,18),
vì Người được ví như Đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). +
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được
mặc khải nơi Đức Giê-su là Con của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Tất cả
đời sống, lời nói và việc làm của Người là nơi mà Chúa Cha sẽ được
tỏ mình ra cách hoàn hảo. Vì Đức Giê-su luôn kết hiệp với Chúa Cha
và làm theo ý Chúa Cha.
- C 11-12: + Ai tin
vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mệnh cứu độ loài người. +
Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha:
Không phải các Môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su,
nhưng sau khi Người lên Trời, các ông được trao sứ mệnh thay Người đi rao
giảng Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới với ơn phù trợ
của Thánh Thần (x. Cv 1,8).
4. CÂU HỎI:
1. Tại sao các Môn
đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần các ông
? 2. Đức Giê-su muốn nói gì qua câu
"Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở" ? 3. Đức Giê-su hứa đi
trước để dọn chỗ và Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người vào
lúc nào ? 4. Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống,
Đức Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì ? 5. Câu "Không ai đến được
với Chúa Cha mà không qua Thầy" có ý nghĩa thế nào ? 6. Ngay từ bây
giờ các Môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua ai ? 7. Từ đây ai muốn gặp
Chúa Cha thì phải gặp qua người nào ? 8. Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm
được những việc Người đã làm và còn làm được việc gì lớn hơn nữa
cụ thể là những việc gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga
14,9b).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MẮT PHÀM KHÔNG THỂ THẤY THIÊN CHÚA VÔ HÌNH:
Một ông vua kia do
cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám
mục trong nước vào trong hoàng cung. Vua ra lệnh cho các Giám mục trong
một tuần lễ phải chứng minh Thiên Chúa là Đấng có thực. Nếu không
chứng minh được thì tất cả các Giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp
dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm
sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi
càng gần đến hết hạn định, tâm trạng các vị Giám mục lại càng bị
bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền
đến xin phép được thay cho các Giám mục để chỉ cho nhà vua xem thấy
Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần đến
một ngọn đồi giữa buổi trưa nắng gắt. Anh chỉ tay lên mặt trời và tâu
nhà vua: “Muôn tâu bệ hạ, thảo dân xin bệ hạ nhìn theo ngón tay của
thảo dân, thì sẽ xem thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các quan cận thần
đều nhìn lên mặt trời theo hướng ngón tay của anh tu sĩ kia, nhưng không
ai có thể nhìn được vì bị chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi giận
ra lệnh chém đầu anh tu sĩ vì cho rằng anh ta đã dám đánh lừa mình.
Bấy giờ vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua và thưa rằng: “Muôn tâu
bệ hạ, bệ hạ đòi xem bằng được Thiên Chúa. Nhưng mặt trời kia chỉ
là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ còn không thể xem
được, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa là Đấng vô cùng
cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô
hình, nên người ta không thể xem thấy Ngài bằng cặp mắt xác thịt, mà
chỉ có thể thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin thôi”
2) NĂM NGƯỜI MÙ CHO BIẾT VỀ HÌNH DẠNG CON VOI:
Bài thơ của John
Saxe kể lại câu chuyện năm gã mù người Ấn Độ đứng vòng quanh một con voi
và muốn biết hình thù của con voi ra sao. Gã mù thứ nhất liền tiến ra sờ vào
bên hông của con voi liền bảo voi giống như một bức tường. Gã thứ hai sờ thấy ngà
voi thì bảo nó giống như một thanh gươm. Gã thứ ba sờ thấy chiếc vòi thì bảo
nó giống một con rắn khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào cái tai thì bảo nó giống như một
chiếc quạt lớn. Gã thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo nó giống như một bó dây
thừng. Thế thì ai trong năm gã mù này trả lời đúng ? Có lẽ cả
năm gã mù đều trả lời đúng, nhưng chỉ đúng một phần khi dựa vào cảm nghiệm giới
hạn của mình. Phải nhờ ngồi lại đối thoại với nhau thì họ mới có được một cái
nhìn tổng hợp về hình thù của con voi mà mắt họ không xem thấy.
3) CÓ THẾ GIỚI NÀO KHÁC SAU KHI CHẾT KHÔNG ?
Có một gia đình kia. Bà
vợ rất sùng đạo, luôn dạy con cái giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi
lễ nhà thờ. Trái lại, ông chồng lại không tin vào Thiên Chúa và luôn miệng nhạo
báng những hành vi thờ phượng của vợ. Dù sống giữa hai niềm tin đối kháng nhau
của bố mẹ, cậu con trai duy nhất của họ vẫn luôn yêu mến và tỏ lòng hiếu thảo
với hai cha mẹ. Ngày nọ, đứa con mắc bệnh hiểm nghèo, các bác sĩ bệnh viện cũng
vô phương cứu chữa. Khi biết mình sắp chết, cậu bé đã hỏi bố rằng: "Bố ơi,
bác sĩ nói con sẽ không còn sống được mấy ngày nữa! Vậy con xin bố hãy nói cho
con biết, con phải tin theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì sẽ chẳng có thiên
đàng, chẳng có Thiên Chúa và sau này cũng chẳng có bố mẹ để yêu thương và bảo
vệ con ! Còn tin theo mẹ, thì con sẽ có Thiên Chúa là cha nhân lành ban
thưởng hạnh phúc thiên đàng cho con, và sau này con cũng hy vọng sẽ được gặp bố
mẹ mãi mãi.
Ông bố nghe con nói mà
nước mắt lưng tròng. Ông ôm con và nói: "Con hãy tin theo mẹ của con đi
nhé". Cậu bé lại nói: "Nhưng nếu bố không tin giống như mẹ, thì làm
sao con có thể gặp được bố trên thiên đàng được?" Trước câu nói đơn sơ
chân thành của con, ông bố đã nói với con: «Bố cũng tin giống như mẹ của con.
Sau này cả gia đình chúng ta sẽ gặp nhau trên Thiên Đàng con nhé». Kể từ ngày
đó, ông đã hoàn toàn thay đổi lối sống để trở thành người tín hữu đạo hạnh với
hy vọng sau này cả gia đình sẽ được sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.
4) DẤN THÂN ĐI THEO CHỦ TƯỚNG :
Trận chiến tranh giữa hai bên: một bên là nước Pháp
và bên kia là liên minh hai nước Ý và Áo đầu năm 1796 đã kết thúc với chiến
thắng của Pháp vào ngày 17.11.1796 như sau :
Đại tướng Bonaparte đã đưa quân đến một địa điểm,
có cái cầu bắc qua trận tuyến quân địch. Trong lúc trận thế căng thẳng, đại
tướng Bonaparte liền ra lệnh cho quan Pháp xung phong đi qua cây cầu để sang bờ
bên kia. Nhưng trước họng súng của quân thù, không một người lính nào dám tuân
lệnh để xung phong tiến lên thành cầu ! Đại tướng liền xuống ngựa, giựt lấy lá
cờ dẫn đầu của người lính cầm cờ và ông vừa tiến lên thành cầu vừa hô to: “Ai
yêu tổ quốc thì đi theo ta”. Nhưng rồi khi ngó lại, ông thấy trên
cầu chỉ có một mình với lá cờ bị rách tơi tả do đạn của quân địch. Trong lúc
nguy cấp, bỗng xuất hiện một cậu bé 13 tuổi vừa đánh trống thúc quân vừa hô xung
phong và tiến lên cầu đi theo đại tướng. Quân sĩ thấy vậy liền ào ào xung phong
theo sau lên cầu sang bên kia sông và đại tướng Bonaparte đã toàn thắng trận
chiến đầy cam go chấm dứt cuộc chiến tranh.
Tám năm sau, khi Bonaparte đã lên ngôi lấy tên là hoàng
đế Napoléon, có dịp trở lại chiến trường xưa và được mọi người đón rước linh
đình. Hoàng đế Napoléon ngỏ ý muốn gặp lại cậu bé Vidal bấy giờ đã được 20
tuổi, và đang đóng quân tại địa phương.
Viên sĩ quan tùy tùng báo cáo cho biết cậu lính
trẻ đã được trưởng đơn vị cho nghỉ phép về nhà đưa đám tang mẹ mới qua đời.
Hoàng đế Napoléon liền bỏ mọi lễ nghi, cùng đoàn người lên xe đến làng của
Vidal. Đến nơi vừa kịp lúc di quan đến nghĩa trang. Hoàng đế liền cùng các quan
xuống xe đi bộ theo sau quan tài đến tận huyệt mộ. Tại đây ông đã nói mấy lời
phân ưu với Vidal trước khi hạ huyệt. Rồi Hoàng đế ngỏ ý muốn đi chung với
cậu trên đường từ nghĩa trang về làng. Khi Vidal từ chối không dám, Hoàng
đế Napoléon đã nói với cậu như sau: «Tám năm trước con đã liều chết xung phong đi
theo ta lên con đường chết, nay con hãy cho ta đi chung trên con đường
sống để chia sẻ nỗi đau với con» (x. Những tia sáng).
5) NGƯỜI
PHỤC VỤ CHÚA KI-TÔ :
Thỉnh thoảng trong các bức tranh thánh, chúng ta
lại bắt gặp một người đàn ông trung niên cao lớn có chòm râu rậm ẵm đứa trẻ lội
qua sông. Đứa bé đó chính là Chúa Hài Đồng, còn người đàn ông kia là thánh CHRISTOPHER,
có nghĩa Người mang Chúa Ki-tô, dựa theo truyền thuyết nổi tiếng sau đây:
Christopher là một người khổng lồ gốc Canaan có
chiều cao 2.3m. Tên ông là Reprobus, nghĩa là kẻ bơ vơ, bị xã hội ruồng bỏ. To
cao như vậy mà Reprobus lại có khát vọng phục vụ một vị vua vĩ đại. Ông tìm đến
nhà vua được truyền tụng là xuất chúng nhất, nhưng phát hiện ra ông vua này lại
sợ quỷ Satan. Thế là ông lại bỏ đi tìm quỷ. Tìm thấy Satan rồi, ông dốc lòng
phục vụ hắn, nhưng rồi ông lại phát hiện ra quỷ cũng biết sợ Chúa Giê-su. Ông
bèn lang thang đi tìm Chúa Giê-su. Theo hướng dẫn của một nhà tu hành mộ đạo,
Reprobus làm nhiệm vụ đưa mọi người qua một con sông hiểm trở. Nhà tu hành khuyên
ông làm việc thiện này sẽ làm Chúa hài lòng và sẽ gặp được Chúa Giê-su.
Ông khổng lồ Reprobus miệt mài cõng người qua con
sông dữ cho tới một ngày, một đứa trẻ xuất hiện. Tuy bé nhưng lại nặng như chì,
ông khổng lồ vốn khỏe mà bưng em nhỏ qua sông cũng mệt bở hơi tai. Hài nhi
Giê-su cho Reprobus biết sức nặng siêu phàm là do cả thế giới mà ngài đỡ trên
tay. Sau khi hé lộ danh tính của mình cho Reprobus, Chúa Giê-su đã lập tức biến
mất.
Sau khi gặp mặt Chúa Giê-su, anh chàng khổng lồ
Reprobus đổi tên thành Christophoros (kẻ mang vác Chúa). Về sau người ta đọc
thành Christopher. Từ đó Christopher bắt đầu rao giảng truyền đạo, thu phục thêm
nhiều con chiên về cho Chúa. Nhà vua đương thời là hoàng đế La Mã Decius (249-251)
quyết tâm đàn áp Thiên Chúa giáo. Hoàng đế Decius không để cho Christopher được
yên. Ông bị bỏ tù, tra tấn, và cuối cùng bị xử tử chặt đầu.
Từ đó thánh Christopher trở thành vị thánh bảo trợ
đặc biệt cho các du khách và binh sĩ khi ra trận. Cả đời ngài đã đưa người qua
sông an toàn, thế nên từ Âu sang Á, những người lữ hành thường mang theo dây
chuyền có mặt hình thánh Christopher, xe cộ du lịch cũng hay có tượng ngài để
phù hộ cho khách đi đường bình an.
Thánh Christopher đã nâng đỡ Chúa Giê-su bằng bốn
cách: Trên vai khi ngài cõng Chúa qua sông; Trong cơ thể khi ngài chịu sự tra
tấn của nhà vua; Trong tâm khảm khi ngài tận tuỵ hiến dâng lòng mến Chúa; Và
bằng môi miệng khi ngài rao giảng Tin Mừng. Vì thế mỗi tín hữu chúng ta đều có
thể trở thành một “Christopher – người mang vác Chúa” nếu chúng ta quyết tâm yêu
mến phụng sự Chúa và chuyên cần làm việc thiện.
3. SUY NIỆM
:
1) CHẲNG AI THẤY THIÊN CHÚA BAO GIỜ:
Chẳng ai có thể thấy được Thiên Chúa vì Ngài là đấng thiêng
liêng vô hình. Nhưng người ta có thể cảm nghiệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng những
cách khác. Giống như mắt ta không thể nhìn sợi giây nào có điện hay không,
nhưng ta có thể nhận biết có điện bằng nhiều cách khác. Chẳng hạn khi cả xóm đang
tối thui vì cúp điện đột nhiên có điện lại, là đám trẻ con liền la to: «Có
điện rồi». Tại sao lũ trẻ lại nhận ra có điện lại là do chúng thấy bóng đèn
cháy sáng, quạt quay mát, tivi có hình ảnh v.v… Cũng vậy đối với Thiên Chúa.
Tất cả những gì đang hiện hữu và hoạt động nơi bản thân và môi trường chung quanh
chúng ta đều chứng tỏ có Thiên Chúa. Vì nếu không có Thiên Chúa thì sẽ chắc
chắn sẽ không thể có những biểu hiện ấy.
2) AI THẤY THẦY LÀ THẤY CHÚA CHA:
Bài Tin Mừng hôm nay
thuật lại câu hỏi của tông đồ Phi-líp-phê muốn được Thầy chỉ cho xem thấy mặt
Chúa Cha, thì đã được Người trả lời như sau: “Thầy ở với anh em bấy lâu,
thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ?”. Thực vậy, "Không ai
thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung
lòng Chúa Cha. Chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18).
Con người tuy có thể nhận biết có Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử
cứu độ của Ngài, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt của Ngài. Chính Chúa Con là Chúa
Giê-su đã tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa nơi Người:
"Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9).
Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Người đã cho nhân loại nhận biết Chúa Cha nơi
lời nói và hành động của Người như sau: Thiên Chúa là một người Cha từ bi nhân
hậu, đầy lòng xót thương, sẵn sàng tha thứ tội lỗi của con cái. Chúa Giêsu trở
thành con đường độc nhất dẫn đưa loài người đến với Chúa Cha: "Không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).- "Thiên Chúa không
ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu
độ" (Cv 4,
12).
Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en”,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi
từ trời xuống thế mặc lấy thân xác phàm nhân (x. Ga 1, 14). Người nên giống
loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội (x. Dt 4, 15). Chính nhờ
Đức Giê-su mà loài người chúng ta mới biết « Thiên Chúa là Tình Yêu »
(1 Ga, 16); Thiên Chúa là Một theo Bản Tính, nhưng là Ba theo Ngôi Vị (Mầu
nhiệm Một Chúa Ba Ngôi).
3) THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG :
Khi nghe Đức Giê-su cho biết trong nhà Cha của
Người có nhiều chỗ ở, và Người sắp về trời là để dọn chỗ cho các môn đệ. Rồi Người sẽ trở lại để đem các ông lên trời với Người, để Thầy trò sẽ được ở bên nhau mãi mãi. Ông Tô-ma thắc mắc «Chúng
con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi? Đức Giê-su trả
lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai
đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).
- Là Con đường: Đức Giê-su vừa là mục tử dẫn đường cho đoàn
chiên là các tín hữu lên trời, mà Người còn là con đường, là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa loài
người lên trời.
- Là Sự Thật: Đức Giê-su
đến để bày tỏ sự thật về Thiên Chúa cho
chúng ta (x. Ga 12, 45). Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 10); “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30).
- Là Sự Sống: Đức Giê-su
đã trải qua sự chết và đã sống lại vinh quang, để mở đường sống cho những ai
tin và chấp nhận đi con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người, như
thánh Phao-lô viết:
“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”
(Rm 6,8). Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến bánh rượu trở thành Mình Máu
Người và mời gọi các tín hữu lãnh nhận để được tham phần vào sự sống đời đời
với Người.
4) TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG DẪN ĐƯA
THA NHÂN LÊN TRỜI VỚI CHÚA CHA :
Trờ thành Ki-tô hữu
tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt tha nhân. Mỗi người
chúng ta phải sống thế nào để cũng có thể nói như thánh Phao-lô: “Đối với
tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1, 21). “Tôi sống, nhưng không còn
phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Thánh Phê-rô cũng đã khẳng định trước Thượng Hội Đồng Do thái
như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ,
Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài
Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có
một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ
vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4, 11-12).
Ngày nay Đức Giê-su
đã về trời với Chúa Cha, và đã mở con đường sống cho loài người là đạo
công giáo. Cuộc đời của Đức Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa
chúng ta lên trời. Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ nhận biết thánh
ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì. Một khi biết lắng nghe và thực hành Lời
Chúa, chúng ta sẽ đi Con Đường Giê-su : là «đường hẹp, leo dốc và ít
người muốn đi», là đường «Bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân
Chúa», là đường «mến Chúa yêu người», đường «Qua đau khổ vào trong vinh quang»…
thì chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để đưa tha nhân cùng được lên
trời với chúng ta. Mỗi lần dự lễ và rước lễ sốt sắng, chúng ta sẽ được Chúa Giê-su
ban sự sống là ơn Thánh Thần để giúp ta hăng hái chu toàn sứ vụ làm chứng cho
Chúa đến tận cùng trái đất.
4. THẢO LUẬN :
1) Bạn có đồng ý với lập luận như sau: “Đạo nào
cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng
cần phải truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo
đạo làm người là đủ”? Tại sao? 2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải,
bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo Lời Người chỉ
dạy? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con
làm gì ?"
5. NGUYỆN CẦU :
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho mọi người đều được nhận biết chân ly
và được hưởng ơn cứu độ. Xin ban cho những ai chưa biết Thiên Chúa,
được nghe Lời Chúa để có đức tin và quyết tâm sống theo gương Chúa
làm và lời Chúa dạy để được hưởng ơn cứu độ. Xin thôi thúc các tín
hữu chúng con biết ý thức sứ mệnh phải chia sẻ niềm tin, hạnh phúc,
niềm vui và sự bình an cho lương dân đang sống chung quanh chúng con.
- LẠY CHÚA. Chúng
con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu
toàn sứ mệnh truyền giáo mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi về
trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mệnh truyền giáo trước hết
phải được thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con
cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác.
Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy
niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh
trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa
dạy và quyết tâm thực hành theo trong đời sống thường ngày. Xin cho
chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo
chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu
thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em
của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM