SUY NIỆM LỜI
CHÚA CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN NĂM A
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
CỦA THIÊN CHÚA,
TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo dường như là một huyền thọai đối với người
chỉ thấy những thực tại vật chất. Nhưng thực sự, nó thuộc về thời cánh chung và
Giáo Hội đang phục vụ cho thực tế ấy. Chính vì thế mà Giáo hội đóng vai trò là
men thiêng liêng giữa lòng đô thị trần thế. Giáo hội có sứ mạng cảnh giác cho
những ai đang dấn thân trong việc trần thế rằng những gì họ làm chỉ có ý nghĩa
trong mức độ tôn trọng bậc thang gía trị.
Sách Tiên tri Isaia 45, 1.4-6a
Lúc bấy giờ, Dân Thiên Chúa đang bị lưu
đày ở Babylon, một vương quốc đang trên đà suy thóai, có nguy cơ sẽ bị người Ba
tư nuốt chững. Vua Ba tư là Kyrô nổi tiếng là nhân đạo, được coi như một đấng
Cứu độ, một Messia loan báo một đấng khác, một đấng Messia đích thực sẽ cứu
thoát tòan thể nhân lọai.
Thánh Vịnh 95
Vinh danh Thiên Chúa, Chủ tể toàn thể vũ
trụ. Trước nhan Người, tất cả mọi quyền bính nhân lọai đều ra như không. Chỉ
mình Ngài mới xứng đáng là Vua, vì chỉ có mình Người mới có thể tạo dựng một vũ
trụ công chính.
Thư 1 Têxalônica 1, 1-5b
Bức thư nầy trước tiên đặt trọng tâm trên
niềm hi vọng vào Nước Chúa sẽ hiển trị. Khi trở lại, Chúa sẽ chiến thắng dứt
khoát. Người Kitô hữu phải tích cực hướng về đích cuối cùng, bằng đức tin, hi
vọng và lòng mến. Nhờ đó, Thánh Thần hành động và lôi kéo thế giới đến chỗ hoàn
tất bằng cách đưa Lời Thiên Chúa thấm nhập vào.
Tin mừng: Mt 22, 15-21
NGỮ CẢNH
Đoạn Tin mừng nầy nằm trong ngữ cảnh các
cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các địch thủ của Ngài. Dụ ngôn tiệc cưới cho
thấy tình hình căng thẳng lên đến cao độ. Tiếp sau là các cuộc tranh luận có
chiều hướng đi lên. Đoạn nầy gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c15), mưu tính
của họ nhắm vào Ngài (c 16, 17) và câu Ngài trả lời cho họ (cc 18-21). Trọng
tâm đặt ở lời phán quyết sau cùng: “Của César, trả về cho César; của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa”.
TÌM HIỂU
Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những
người.. đến nói với Chúa Giêsu: Chỉ ở đây và ở Mc 2, 13 chúng ta mới
nghe nói đến môn đồ của Biệt phái. Có thể là người Biệt phái đã sai môn đồ của
các kí lục. Lí do là vì một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp
thuế thì chắc chắn không phải là chuyện bình thường và có thể làm cho Chúa
Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ đã quá rõ đối với dân chúng Palestina.
Những người thuộc phe Hê rô đê: phe nầy ủng hộ Rôma, vì
Đế quốc Rôma nâng đỡ các tiểu vương thuộc gia đình vua Hêrôđê Cả.
Thưa Thầy: trong Mt, các môn đồ
không bao giờ dùng tiếng ‘Thầy’ khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng
‘Ngài’ (kurie); chỉ có các kí lục, Biệt phái, phe Sađukêô (8, 19; 9,
11;12, 38; 22, 16.25.36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh
niên giàu có (19, 16) sử dụng thôi. Giuđa là người duy nhất trong nhóm Mười
hai, hai lần dùng danh xưng ‘Thầy’ (26, 25.49), cách gọi mà Chúa Giêsu yêu cầu
tránh trong cộng đoàn huynh đệ (23, 7-8).
Chúng tôi biết: Lời khen tặng nồng
nhiệt nhất dành cho một thầy Rabbi, chuyên viên giải thích lề luật, là khen họ
trung thành với Lề luật và không thiên vị: “Chúng tôi biết Thầy là người
chân thật và không thiên vị ai”. Các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc
lại hai đòi hỏi này.
Có được phép nộp thuế cho Xêda không?: Từ “được phép”
(existin) và “không được phép” là công thức Mt thường dùng: x.
12, 2.4.10.12; 14.4; 19, 3; 20, 15; 27, 6). Đây là câu hỏi mà người Do thái mộ
đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các tư tế có nhiệm vụ giải đáp trong
cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường nhật. Nó mang ý nghĩa: ‘hướng
về Thiên Chúa’ trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề luật, có
được phép nộp thuế không? Ngoài nhiều khoản thuế (thuế cầu đường, thuế quan..),
người công dân còn phải nộp một thứ cống nộp để tỏ lòng thần phục Hoàng đế.
Người Do thái rất ghét thứ thuế nầy và nhóm Quá Khích thì coi việc từ chối nộp
là một bổn phận tôn giáo.
Hỡi những kẻ giả hình: Những người đối thoại
với Chúa Giêsu bị phê phán là giả hình theo hai nghĩa. Trước hết là họ làm bộ
như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt nêu lên đề làm cho
Chúa Giêsu lúng túng. Thứ đến là khi sử dụng đồng ‘quan’ (đồng tiền của hoàng
đế) trong các giao dịch thương mại, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của
Hoàng đế rồi.
Đồng tiền nộp thuế: Người Do thái chỉ có
quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ
có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (denarion).
Của Xêda, trả về Xêda: câu trả lời này chứa
đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong quan
niệm của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng các lãnh tụ nhận lãnh
quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2, 21; 2, 37-38; Cn 8, 15-16; Ga 19, 11; Rm
13, 1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các triều đại
của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng tuy chỉ tạm thời.
Đối với các quyền bính chính trị thì trong toàn bộ Tin mừng, Chúa Giêsu đã tỏ
ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng chẳng chống
đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ và thánh
thư, cũng đi theo trong chiều hướng ấy.
SỨ ĐIỆP
“Hãy trả lại cho Xêda những gì của
Xêda, và cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Câu nói ấy đã nên thời
danh như một câu tục ngữ. Thật rõ ràng, vật nào của ai thì phải hoàn trả cho
người ấy. Vấn đề là người ta lạm dụng câu ấy để biện minh cho những sự lựa chọn
và những dấn thân chính trị hoặc để thiết lập tương quan giữa Giáo Hội và Nhà
Nước. Đó không phải là điều Chúa Giêsu muốn.
Hôm nay Chúa Giêsu đứng trước hai loại đối
thủ kình chống lẫn nhau; một bên là phe Xêda, và bên kia là những kẻ chống đối
họ. Nhưng lần nầy họ bắt tay giăng bẫy
bắt Chúa Giêsu: “Có được phép hay không nộp thuế cho Vua Xêda không?”
Bẫy giương ra thật nguy hiểm: Nếu Ngài trả lời là có, Ngài bị mất uy tín nơi
dân đang chịu đau khổ vì ách thống trị của người La mã. Còn nếu không, người ta
có thể cáo buộc Ngài là một người xách động chống đối người La mã và sẽ ra lệnh
bắt Ngài. Trong cả hai trường hợp, đằng nào Ngài cũng sẽ chết, và vĩnh viễn sẽ
bị loại ra khỏi vòng chiến.
Ngày nay, chúng ta đang đối diện một cám
dỗ nặng nề là muốn gạt bên lề những ai muốn đặt lại vấn đề chúng ta và đẩy
chúng ta đến chỗ thay đổi. Lời họ nói khiến chúng ta khó chịu: vì thế, người ta
làm tất cả để để gây tổn thương cho họ, cả việc cáo buộc cách bất công những
hành vi mà họ không phạm. Như thế lời của họ không còn đáng tin nữa. Nhưng Chúa
Giêsu không để cho mình bị rơi vào trong cái bẫy ấy. Câu trả lời của Ngài thật
rõ ràng và không thể đảo ngược. Trước tiên Ngài tố cáo sự giả hình của họ: Khi
dùng đồng tiền của hoàng đế, từ lâu họ đã trả lời câu hỏi: “Hãy trả cho Xêda
những gì của Xêda, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Trên mặt
đồng tiền họ đưa cho Chúa Giêsu, có in hình Xêda cùng với hàng chữ: “Tibêriô,
Xêda thần thánh”. Các hoàng đế Rôma tự cho mình tước hiệu thần linh. Họ muốn
người ta thờ phượng mình như những thần linh.
Và đó chính là điều mà Chúa Giêsu không
đồng ý: Xêda không phải là Thiên Chúa. Vì thế, không được thờ phượng hay vâng
phục ông ta khi ông tự gán cho mình những quyền năng chỉ thuộc về Thiên Chúa mà
thôi. Chúng ta hãy nhớ lời Kinh Thánh: “Ta là Chúa và không có Chúa nào khác
ngoài Ta”. Điều đó cũng có giá trị cho chúng ta hôm nay. Vẫn còn một số
người tự cho mình là Thiên Chúa. Chúng ta đã biết và đã gặp họ. Thế mà thỉnh
thoảng, chúng ta kêu cứu đến họ, lụy phục họ khi chấp nhận những điều không
phải lúc nào cũng phù hợp với lương tâm chúng ta. Chính lúc đó chúng ta phải
tìm lại điều cốt yếu cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Đồng tiền mang hình Xêda,
còn chúng ta, dấu ấn mà chúng ta đang mang thuộc một trật tự khác: đó là dấu ấn
của Thiên Chúa; ngày chịu phép rửa, chúng ta đã được đóng ấn bằng dấu thánh giá
của Đức Kitô. Chúng ta đã trở thành con cái Thiên Chúa. Đó là một dấu ấn không
thể tẩy xóa định hướng toàn bộ cuộc sống chúng ta.
“Hãy trả lại cho Xêda những gì của
Xêda!” Thật sự là chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa; bởi đó, chúng ta tìm
cách thấm nhuần sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Nếu chúng ta thật sự yêu
thương Ngài, chúng ta không còn phải tự hỏi đâu là điều được phép hay cấm đoán.
Chúng ta sẽ cống hiến cho Ngài điều tốt đẹp nhất của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa
mà chúng ta đón nhận hướng chúng ta đến tha nhân. Niềm hi vọng mà Ngài đặt nơi
chúng ta, cũng giống như một ánh sáng phải chiếu tỏa nơi mắt mọi người. Bổn
phận chúng ta là quan tâm đến những gì thuộc lợi ích chung cho mọi người, với
mục đích góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bình và huynh đệ hơn. Không
phải bằng cách quị lụy trước quyền bính mà mọi sự được giải quyết. Mỗi người
chúng ta phải tìm những gì tốt cho lợi ích của cộng đoàn và làm tròn trách nhiệm
của mình.
“Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì
thuộc về Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nhấn mạnh đến quyền tối thượng của Thiên
Chúa. Người là chủ tể cả thế gian và Người trao quyền hành cho những ai nắm giữ
quyền bính thế gian. Nhưng những quyền bính thế gian phải vâng phục quyền bính
của Thiên Chúa là ưu tiên. Khi Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục can thiệp, không
phải để làm chính trị. Bỏ phiếu như thế nào thì không thuộc vai trò của các
Ngài. Nhưng các Ngài có bổn phận nhắc lại các giá trị căn bản cho những người
có trách nhiệm trên thế giới. Kính trọng sự sống ngay từ khi đầu thai, bảo vệ
những người yếu và kẻ bị loại trừ, bác bỏ tất cả những gì hủy hoại hoặc nô lệ
con người. Trong các lãnh vực trên, vẫn có một cám dỗ lớn theo các hướng dẫn
của trần gian, cả khi điều đó không phù hợp với những xác tín sâu xa của chúng
ta.
Trả lại cho Xêda những gì của Xêda không
ngăn cản người ta đấu tranh cho công bằng và làm sao cho phẩm giá của những
người nghèo nhất, của bệnh nhân và của những người bị loại trừ được nhìn nhận
và tôn trọng. Trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa cũng là một trong
những lời kêu gọi ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta không phải là những người
chỉ biết hưởng dùng ơn sủng đức tin. Chúng ta
được mời gọi là những diễn viên và những người xây dựng cộng đoàn Kitô. Chính
trong thế giới như hiện nay mà chúng ta phải làm chứng cho tin mừng. Nhờ phép
Rửa tội và phép Thêm sức, chúng ta đã lãnh nhận Thánh Thần trong chúng ta.
Thánh Thần của Thiên Chúa cũng là một Thánh Thần truyền giáo. Chúng ta được sai
đến với những người khác. Đức Kitô muốn rằng chúng ta thực sự ở trong trạng
thái truyền giáo dù chúng ta đang ở trong độ tuổi hay tình trạng nào.
Trả lại cho Thiên Chúa những gì của Người,
đó cũng là điều mà chúng ta được mời gọi khi tham dự Thánh lễ. Chúng ta dâng
cho Người tất cả những hành vi đức tin, hi vọng và đức ái sáng lên trong cuộc
đời chúng ta và anh em chúng ta. Đồng thời, đó cũng là điều mà chúng ta dấn
thân thực hiện khi tranh đấu cho tình yêu chiến thắng hận thù và sự loại trừ
nhau và để cho tin mừng được loan báo bằng lời nhưng nhất là bằng hành chính
cuộc sống.
ĐÀO SÂU
TẤT CẢ ĐỀU THUỘC VỀ THIÊN CHÚA
Is 45, 1.4-6 Các vương quốc nằm
trong tay quyền năng Thiên Chúa
Tv 96, 1 Mọi vinh quang
danh dự đều thuộc Chúa là Thiên Chúa chúng con
1Tx 1, 1-5 Đức tin, trông cậy
và đức ái của cộng đoàn
Mt 22, 15-21 Của Xê-da hãy trả
lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa
1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ
đề gì?
THƯA: TẤT CẢ ĐỀU THUỘC VỀ
THIÊN CHÚA. Thiên Chúa nắm quyền chủ tể trên hết mọi loài (Bđ1). Chân lí ấy
được Đức Giêsu nhắc lại qua
lời nói nổi tiếng: “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa” (BTM).
2. HỎI: Sách Đệ nhị Isaia là sách gì?
THƯA: Sách Đệ nhị Isaia bao
gồm các chương từ 40 đến 55, do môn đồ tiên tri Isaia viết để
nâng đỡ niềm hi vọng những người Do thái bị lưu đày ở Babylon.
3. HỎI: Bối cảnh bài đọc một (Is 45,1.4-6) như thế nào?
THƯA: Trong thời gian người Do
thái bị lưu đày ở Babylon, vương quốc Ba tư dưới quyền Hoàng
đế Kyrô trở nên hùng mạnh, mở rộng đế quốc khắp vùng Trung Đông. Trước tình
hình mới đó, tiên tri Isaia loan báo Kyrô sẽ đánh bại Babylon, sẽ giải thoát
những kẻ bị lưu đày và cho người Do thái trở về Giêrusalem.
4. HỎI: Bài đọc một để lại bài học gì?
THƯA: Nội dung bài đọc một cho thấy trước hết Thiên Chúa trung thành với Giao
Ước, Người không bao giờ bỏ rơi dân Người đã chọn. Thứ hai, Thiên
Chúa là Chủ tể của lịch sử. Trong tay Người, mọi sự đã trở thành phương tiện
Người dùng để hướng dẫn lịch sử đến mục tiêu cuối cùng là ơn cứu độ cho toàn
thể nhân loại.
5. HỎI: Xác tín thứ nhất có ý nghĩa gì?
THƯA: Trong lúc Ít-ra-ên rơi vào thảm họa
tồi tệ nhất trong lịch sử: mất quyền độc lập, mất tự do, đất đai, đền thờ,
người dân thất vọng tự hỏi có phải Thiên Chúa đã bỏ dân của Ngài không. Tiên
tri mạnh mẽ khẳng định rằng: Thiên Chúa luôn trung thành với Giao Ước của mình,
Ngài không bao giờ từ bỏ dân Ngài đã chọn, vì như thánh Phao lô nói, Ngài không
thể chối bỏ chính mình.
6. HỎI: Và xác tín thứ hai?
THƯA: Thiên Chúa vẫn là chủ tể trần gian,
nắm quyền bính trên mọi loài. Và mọi sự đều do tay Ngài quyết định. Và đây là
điều đem lại niềm hi vọng cho Dân, nếu Thiên Chúa là chủ tể trần gian thì Ngài
sẽ không để cho Dân Ngài phải chịu cảnh bị thù địch đô hộ, nhưng sẽ giải thoát
họ bằng cánh tay chiến thắng của Ngài.
7. HỎI: Như vậy việc vua Ky-rô xuất hiện
là do tay Thiên Chúa xếp đặt?
THƯA: Đúng vậy, dù là người ngoại đạo,
nhưng vua Ky-rô được mô tả như là người được Thiên Chúa tuyển chọn, phong vương
và xức dầu để phục vụ Ngài và dân Ngài như lời sấm Tiên tri Isaia: “Nhân vì
Gia-cóp tôi tớ Ta, và Ítraên kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã
kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi
không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không
có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác” (Is 45, 5-6).
8. HỎI: Tại sao Ky-rô được gọi là “Đấng
Mê-si-a”?
THƯA: Ông được gọi là Đấng Mê-si-a bởi vì
được Thiên Chúa chọn lựa để giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ. Dù không phải
là vua, tư tế hay tiên tri, nhưng những gì mà ông thực hiện cho dân Chúa khiến
ông xứng đáng được gọi là “Đấng Mê-si-a”.
9. HỎI: Trong Is 45, 1. 4-6, khi gọi vua Ky-rô là người được Thiên Chúa xức
dầu tuyển chọn, Isaia muốn nói điều gì?
THƯA: Tiên tri Isaia có ý đem lại cho độc giả của mình một lời giải thích tôn
giáo về lịch sử. Vua Ba tư được gọi là “Người được Thiên Chúa tuyển chọn”,
bởi vì Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi chiến thắng. Thiên Chúa Ít-ra-ên mà Vua
Ky-rô không hề biết, đã chọn ông để cho thấy công trình cứu độ của Ngài. Ngay
cả điều mà đối với chúng ta coi là một sự dữ khủng khiếp nhất hoặc những biến
cố đau thương nhất cũng có thể trở thành cơ hội mang lại Ơn Cứu độ Vĩnh cửu
trong Chương trình của Thiên Chúa.
10. HỎI: Nội dung bài đọc hai (1Th 1, 1-5) như thế nào?
THƯA: Mở đầu thư Tê-xa-lô-ni-ca, thánh
Phao lô khen ngợi tín hữu về niềm tin, lòng cậy và lòng mến của họ thể hiện
trong cuộc sống.
11. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Mt 22, 15-21) như thế nào?
THƯA: Đoạn tin mừng nằm trong ngữ cảnh ba
cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và nhóm lãnh đạo Do thái giáo. Sau ba dụ ngôn
(21, 18-22, 14) là ba cuộc tranh luận (22, 15-46) do ba nhóm đại diện Do thái
giáo khởi xướng để tìm cách gài bẫy Đức Giê-su bằng chính lời nói của Ngài về
những vấn đề rất quan trọng: việc nộp thuế, việc kẻ chết sống lại và giới răn
lớn nhất. Có ba ý chính: 1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22, 15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22, 16-17); 3) Câu trả lời của Đức
Giêsu (22, 18-21)
12. HỎI: Vào thời Đức Giê-su, tình trạng chính trị của Pa-lét-ti-na như thế
nào?
THƯA: Vào thời Đức Giê-su,
Pa-lét-ti-na bị người Rôma đem quân xâm chiếm và đô hộ. Họ đã ban hành ba thứ
thuế: thuế điền thổ, thuế lợi tức và thuế thân. Thuế ở đây là thuế thân đánh
vào mỗi người hằng năm phải nộp một đồng tức là tương đương với lương công nhật
một người.
13. HỎI: Lời khen tặng Đức Giê-su của
người Pha-ri-sêu có dụng ý gì?
THƯA: Lời khen tặng ấy có dụng ý che dấu
âm mưu thâm độc của đối thủ Đức Giê-su. Họ giả vờ nâng Ngài lên để liền đó
giăng bẫy để chờ Ngài sa vào. Nhưng dù mưu mô và xảo quyệt như thế,
họ cũng không qua mắt Đức Giê-su.
14. HỎI: Tại sao Đức Giê-su gọi họ là
những kẻ giả hình?
THƯA: Giả hình vì hai lí do: trước tiên, họ hỏi Đức Giê-su một điều mà họ
đã biết rồi, nên hỏi chỉ để làm cho Đức Giê-su lúng túng mà thôi. Thứ đến, họ
hỏi là nhằm giăng bẫy bắt bẻ Đức Giê-su.
15. HỎI: Tại sao thế?
THƯA: Nếu Đức Giê-su chấp nhận nộp thuế thì người dân sẽ coi Ngài là một
người Do thái gian, tiếp tay cho giặc, uy tín Ngài sẽ sụp đỗ hoàn toàn, còn nếu
tuyên bố chống nộp thuế, họ sẽ có cớ tố cáo Ngài là kẻ phá rối trật tự chung,
lôi kéo người khác chống lại quân Rô-ma.
16. HỎI: Đức Giê-su đã trả lời như thế
nào?
THƯA: Ngài trả lời qua ba điểm: Hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da.
Chỉ trả cho Xê-da những gì của Xê-da. Và hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì
của Thiên Chúa.
17. HỎI: “Hãy trả lại cho Xê-da những
gì của Xê-da” nghĩa là gì?
THƯA: Là công nhận Xê-da hiện thời là
người nắm giữ quyền bính. Chính Đức Giê-su trong cuộc Khổ nạn cũng đã chấp nhận
như thế: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”
(Ga 19, 11). Và vì thế, Ngài chấp nhận việc nộp thuế như là một bổn phận mà mọi
công dân phải thực hiện đối với nhà nước.
18. HỎI: “Chỉ trả cho Xêda những gì của
Xê-da” có nghĩa gì?
THƯA: Khi Xê-da là hoàng đế Rô-ma đòi phải
đóng thuế, thì phải đóng thuế, nhưng khi đòi người ta tuyên xưng và thờ lạy là
Chủa, thì không được tuân theo vì thờ lạy hoàng đế là tội thờ bụt thần.
19. HỎI: “Hãy trả cho Thiên Chúa những
gì của Thiên Chúa” có nghĩa là gì?
THƯA: Có nghĩa là nhìn nhận nơi Đức Giê-su
là Đấng đến từ Thiên Chúa, là ‘Đấng thuộc về Thiên Chúa’. Và phải tìm kiếm Nước
Thiên Chúa trước tiên, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho (x. Mt 5, 39-42).
20. HỎI: Người Do thái có chống đối việc
nộp thuế cho Xêda không?
THƯA: Phần lớn dân Do thái chống lại việc
nộp thuế, nhất là thuế thân, đặc biệt nhóm Nhiệt Thành còn coi việc từ chối nộp
thuế là một bổn phận tôn giáo.
21. HỎI: Bài tin mừng gửi đến chúng ta sứ
điệp gì?
THƯA: 1. Bài học về sự tự do. Xê-da chỉ là Xê-da, vua chúa trần gian chỉ là
những người nắm quyền nhỏ bé. Triều đại của họ chỉ kéo dài trong một thời gian.
Còn Vương quốc Thiên Chúa thuộc về một lãnh vực khác: chính nơi các nước trần
gian nầy mà mọi hành vi tình yêu và huynh đệ làm lớn lên vương quốc đích thực
là Vương quốc của Thiên Chúa. 2. Bài học về sự tuân phục: “Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5, 29).
GLCG 2242 1903 2313
450 Theo lương tâm, người công dân không được tuân theo những luật lệ
của chính quyền dân sự khi chúng ngược lại các đòi hỏi luân lý, nghịch với các
quyền cơ bản của con người hay giáo huấn của Tin Mừng. Khi những đòi hỏi của
chính quyền nghịch với đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng, Ki-tô hữu từ
chối vâng phục chính quyền, vì phải phân biệt giữa việc phục vụ Thiên
Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. "Của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mt 22, 21). "Phải vâng lời Thiên Chúa
hơn vâng lời loài người" (Cv 5,29): 1901"Khi công quyền
vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp công dân, thì lúc đó chính công dân cũng
không nên từ chối những gì khách quan xét thấy phù hợp với đòi hỏi công ích. Họ
được phép bênh vực các quyền lợi riêng của mình cũng như của đồng bào, chống
lại những lạm dụng của công quyền, nhưng phải tôn trọng các giới hạn của luật
tự nhiên cũng như luật Tin Mừng" (GS 74,5).
LM. PAUL NGUYỄN VĂN ĐÔNG