Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Thứ XXVIII Thường Niên Năm A
Vương
quốc Thiên Chúa được so sánh như một bữa tiệc chiêu đãi tất cả mọi người. Chúng
ta đang ở trong một thế giới đóng kín, hầu hết ai cũng đều lo tranh giành của
cải trần gian và từ chối chia sẻ với người khác, với người khách lạ, để tìm cho
mình phần tốt nhất. Nhưng trong lòng mỗi người có một giấc mơ không ngừng chờ
được khẳng định: đó là giấc mơ một thế giới không chia rẽ, không hận thù chủng
tộc, không nghèo đói nhưng đầy yêu thương. Đó chính là Nước Trời mà chúng ta được
mời gọi đến.
Sách Tiên
tri Isaia 25, 6-9
Giêrusalem
núi thánh bị người Assyria xâm lăng đe dọa. Vùng ngọai vi đã bị tàn phá. Trong
bối cảnh đó, lời sấm Isaia xuất hiện như một lời loan báo không ngờ. Tình thế
khốn cùng sẽ chấm dứt. Một ngày kia, người ta sẽ được tham dự một lễ hội long
trọng mừng chấm dứt một thế giới cũ và mọi dân sẽ đến tham dự trong y phục đại
lễ.
Thánh
Vịnh 22
Tác giả
thánh vịnh hát mừng lòng xác tín hạnh phúc của người biết mình được Chúa hướng
dẫn đến bàn tiệc tràn đầy các thức ăn.
Thư gửi
Philípphê 4, 12-14. 19-20
Thánh
Phaolô là tù nhân và vừa nhận lãnh sự giúp đỡ vật chất từ dân thành Philípphê.
Ngài cám ơn họ, và thêm rằng Ngài đã quen sống một đời khổ cực và nghèo khó,
nên có thể chịu đựng mọi thiếu thốn. Ngài còn quả quyết rằng chính tình yêu của
họ đối với Đức Kitô là nguồn phát sinh chứng từ yêu thương thúc đẩy họ chia sẽ
với Phaolô tù nhân.
Tin mừng: Mt 22: 1-14
NGỮ CẢNH
Ba dụ ngôn tiếp theo: Hai người con (21, 28-32), những người thợ
vườn nho (21, 33-46) và tiệc cưới hoàng gia (22, 1-14) được Chúa Giêsu gửi đến
giới lãnh đạo do thái (21, 23) và mọi người. Ngài muốn cho mọi người hiểu rằng,
Thiên Chúa không ép buộc ai phải theo Người, nhưng kiên nhẫn chờ đợi họ đáp lại
lời mời gọi của Người.
Có thể đọc bản văn theo cấu trúc sau đây:
1. Nhập
đề (22, 1)
2. Dụ
ngôn tiệc cưới (22, 2-10)
3. Dụ
ngôn áo cưới (22, 11-13)
4. Kết
luận (22, 14)
TÌM HIỂU
Về Nước Trời cũng giống như vua kia: Nước
Trời không giống như một ông vua; nhưng trong Nước Trời được Chúa Ki tô khai
mào, sẽ xảy ra điều mà dụ ngôn sắp kể lại (x. 13, 24; 18, 23; 25, 1). CƯ và Do
thái giáo thường mô tả Thiên Chúa qua nét họa một vì vua (Tl 8, 23; 1Sm 8, 7;
Xh 19, 6).
Mở tiệc cưới cho con mình: Hình ảnh bửa tiệc thiên
sai vai mượn từ CƯ (Is 25, 7; 55, 1-3). Nó nói lên tính cách nhưng không của ơn
cứu độ Thiên Chúa ban cho dân Người, được tiên trưng qua bữa ăn của Môsê với 70
kì lão, trước sự hiện diện của Đấng Vĩnh cửu trên núi Sinai, sau khi đã dâng hi
tế đền tội (Xh 24, 11). Sách Khải Huyền cũng trình bày ngày quang lâm của Nước
Thiên Chúa như việc cử hành lễ cưới của Chiên Con (Kh 19).
Nhưng họ không chịu đến: Sự từ chối được diễn tả một
cách rõ ràng qua động từ “đến”, rất được Mt ưa dùng (x.11, 14; 16, 24; 18, 30;
19, 17; 23, 27b). Vậy việc đáp lại lời mời không phải là do tự nhiên hay tình
cảm, nhưng là chuyện tự ý hoàn toàn quyết định. Ở câu 5, Mt còn cho thấy các
thực khách “không thèm đếm xỉa” đến, không hề quan tâm đến lời mời.
Những kẻ đã được mời lại không xứng đáng: Không
xứng đáng không phải vì khiếm khuyết, mà vì đã từ chối.
Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc
cưới: Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người do thái khinh
chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của những người phục vụ
Tin mừng trên khắp thế giới (x. Mt 8, 11). Sự cứng lòng và từ chối của Israel
chỉ dẫn đến cơ hội bắt đầu thời gian của Giáo hội, thời gian mà một khi Tin
mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (24, 14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ mọi
hạng người. Do đó việc sai các gia nhân lần thứ ba tương ứng với việc sai các
sứ đồ đến với dân ngoại sau khi Chúa Giê su phục sinh. Ở đây chúng ta gặp lại
chiều hướng phổ quát và truyền giáo rất được Mt chú trọng (2, 1-2; 3, 9; 8,
5-10; 8, 38-34; 15, 21-28).
Bất luận tốt xấu: chi tiết nầy làm chúng ta
liên tưởng tới dụ ngôn lưới cá (13, 47-50). “Kẻ xấu” bản văn nói tới ở đây là
những người có tội, được mời cách nhưng không, sẽ cải thiện đời sống một khi đã
vào trong Nước Trời hay Giáo hội, hoặc là “kẻ xấu” theo nghĩa tuyệt đối mà một
ngày kia sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời (hay ra khỏi Giáo hội). Các câu 11-14
tiếp theo sẽ bàn đến hạng kẻ dữ nầy.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc: Đây là
cuộc phán xét sau cùng. Những câu nầy của riêng Mt, chắc chắn là để sữa lại một
lối giải thích quá rộng rãi về các câu 1-10. Việc gia nhập vào Giáo hội là
nhưng không, nhưng đừng quên rằng Giáo hội là của Đức Vua. Thiên Chúa “khám
xét” dân mới của Người kỹ lưỡng vì ân sủng của Người luôn luôn đòi hỏi. Động từ
“quan sát’ (theaomai) nói đến việc các nhân vật quan trọng không
ngồi ăn chung với khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào
quan khách.
Làm sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới: Y phục
lễ cưới đây chỉ sự công chính luôn luôn được Tin mừng Mt đòi hỏi nơi tín hữu
(x. chương 5). Để vào Nước Trời, cần phải ‘mặc áo cứu độ’ (Is 61, 10), “mặc lấy
Chúa Ki tô” (Ep 4, 24; Gl 3, 27). Chỉ những ai đã giặt áo mình trong máu Con
Chiên (Kh 7, 9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới
(x. Kh 19, 6-8).
Người ấy câm miệng, không nói được gì: Người
do thái quan niệm rằng các việc lành phúc đức sẽ bầu cử cho họ trước mặt Thiên
Chúa. (Cn 4, 13; Cv 10, 4). Người khách đã không thực thi việc phúc đức nên đã
lặng thinh, vì chẳng có ai chuyển cầu biện hộ cho y cả.
Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít: Ngôn
ngữ Hípri không có cách nói so sánh (tốt = tốt hơn) và cực cấp (tốt
nhất), nên phải dùng kiểu nói quanh. Phải dựa vào mạch văn mới xác định
được nghĩa so sánh tiềm mặc (Mc 9, 42; Mt 22, 36; 26, 24; Lc 10, 42; 18, 14..).
SỨ ĐIỆP
Hôm nay,
Chúa Giê su giới thiệu Thiên
Chúa qua hình ảnh một ông vua mời gọi mọi người đến dự tiệc cưới. Bình
thường, ít ai dám từ chối lời mời nầy. Không nhận lời mà không có lí do chính
đáng là một điều xúc phạm. Làm sao có thể từ chối bạn bè để chia sẻ niềm vui
với họ trong ngày kỉ niệm đáng nhớ nhất trong đời? Ở đây, chính Thiên Chúa mời
gọi; Ngài sai gia nhân đi mời: “Hãy đi đến các ngả đường, hãy mời tất cả
những ai các ngươi gặp vào dự tiệc cưới”.
Chúng ta ngạc nhiên, thậm
chí bị sốc trước thái độ khinh thường của những người được mời dự tiệc cưới
trong dụ ngôn nầy. Người ta đề nghị cho họ một điều kì diệu sẽ thay đổi cuộc
sống của họ; thế mà họ lại khước từ, viện đủ mọi lí do: nào là không có giờ,
quá bận bịu công việc, nào là có quá nhiều điều phải toan tính. Tệ hơn hết, họ
quay lại chống các sứ giả mang tin mừng và đối xử dã man với họ. Hình ảnh ấy ám
chỉ đến tất cả các vị tử đạo mọi thời đại, các tiên tri Cựu Ước và cũng như tất
cả các tiên tri trong lịch sử Giáo Hội.
Khi kể cho chúng ta nghe dụ
ngôn nầy, Chúa Giê su gửi đến chúng ta một sứ điệp quan trọng. Đám cưới đó
chính là Giao Ước của Thiên Chúa với nhân loại. Toàn bộ Kinh thánh cho chúng ta
thấy Thiên Chúa nói với loài người bằng ngôn ngữ yêu thương và giao ước. Tình
yêu một khi đã lên đến tột đỉnh thì cũng giống như một trận cuồng phong,
không gì có thể ngăn cản được, Không một tôn giáo nào có thể tưởng
tượng một sự điên rồ như thế. Và sự điên rồ lớn nhất của Tình yêu, đó chính là
Thiên Chúa đã sai Con một Người đến với loài người. Khi chết trên thánh giá,
Chúa Giê su đã trao cho loài người tất cả mọi khả năng đáp lại tình yêu của
Ngài và đi vào Giao Ước đề nghị với nhân loại.
Thiên Chúa là tình yêu,
Người không thể không yêu thương. Thông thường người yêu dùng sự ghen tương để
đánh thức tình yêu đang mê ngủ. Chính bằng cách đó mà Thiên Chúa bày
tỏ tình yêu của mình cho các dân khác. Họ sẽ đến từ tất cả các quốc gia, vì
Thiên Chúa không thể không yêu thương. Trên toàn thế giới, các nhà truyền rao
Tin mừng đi loan báo cho tất cả các dân tộc rằng Thiên Chúa yêu thương họ. Giáo
Hội của chúng ta phải được coi như là Giáo Hội của tất cả mợi người. Sứ mạng
của Giáo hội, sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho tình yêu phổ quát của Thiên
Chúa mời gọi tất cả mọi người không phân biệt.
Chúng ta bị ấn tượng
bởi thái độ khẩn khoản van nài của
Thiên Chúa khi Người đề nghị một sự thăng tiến như thế cho loài người. Chúng ta
thấy Ngài giận dữ trước sự dửng dưng và ngu ngốc của những người được mời đã
không thấy sự lợi ích đích thực của họ. Thiên Chúa là đấng say mê tình yêu và
Người làm mọi sự để đạt được một lời đáp trả tình yêu của Người: Ngài van nài,
Ngài giận dữ, Ngài mặc cả. Thiên Chúa không muốn chúng ta đánh mất cơ hội kì
diệu ban cho chúng ta. Người biết rằng cuộc sống ngắn ngủi và sau đó, sẽ quá
trễ. Do vậy thật khẩn thiết cho mỗi người chúng ta để đáp trả lời mời gọi đó.
Thế mà rất thường chúng ta
luôn có sẵn muôn ngàn lí do để từ chối đáp trả Người. Chúa Giê su đến đề nghị
chúng ta một kho tàng vô giá, thế mà chúng ta không quan tâm. Bấy giờ, Người
tiếp tục mời gọi chúng ta không mệt mõi. Đừng lần lữa chờ đợi. Ngày mai có lẽ
đã quá trể.
Phần thứ hai của tin mừng
cho chúng ta thấy khách mời được qui tụ trong phòng cưới. Khi Nhà Vua ngự vào,
một chuyện đã xảy ra. Một trong những thực khác không mặc áo cưới. Bấy giờ
người ta đặt ra một câu hỏi: Làm sao trách một người được mời ở ngoài đường
không thể mặc y phục lễ cưới? Nếu Chúa Giê su đã thêm vào chi tiết thái quá ấy,
chính vì Ngài có một sứ điệp quan trọng muốn gửi đến chúng ta.
Đúng thế, tất cả những
người được mời một cách nhưng không, hoàn toàn không do công nghiệp của mình.
Nhưng để vào phòng tiệc, cần phải mang theo áo cưới. Điều đó muốn nói rằng
chúng ta phải tiếp nhận ơn Thiên Chúa trong đức tin. Chúng ta phải sung sướng
tiếp nhận Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta phải mặc cho tâm hồn chúng
ta tấm áo tình yêu của chính Thiên Chúa. Chiếc áo lễ cưới khiến chúng ta nghĩ
đến chiếc áo của người con trai hoang đàng khi anh trở về với Cha mình. Đối với
người cha nầy, chỉ cần có thái độ của đứa con, chỉ cần anh ta chịu để cho ông
mặc chiếc áo cưới ấy. Điều anh ta bị chê bai, trước tiên không phải là sự thiếu
chiếc áo đó, mà là thái độ im lặng. Và sự im lặng đó được cắt nghĩa như một
thái độ kiêu căng. Đó là thái độ của người đóng kín tâm hồn đối với tình yêu
được ban tặng.
Bài tin mừng nầy cũng đuọc
viết cho chúng ta. Tất cả thuộc vào số những người được mời của Chúa đồng thời
cũng là những người mời người khác đến dự tiệc. Thiên Chúa tin tưởng chúng ta
nên cho chúng ta làm những người sứ giả của Tin Mừng. Và trong vai trò sứ giả
của Tin mừng, không phải lúc nào chúng ta cũng sẽ được tiếp đón. Chúng ta sẽ
vấp phải thái độ dửng dưng, thậm chí sự thù nghịch. Mời gọi, trình bày đức tin,
đó là sứ mạng của tất cả những người đã được rửa tội, là sứ mạng của tất cả
chúng ta. Vấn đề không phải là tìm cách ép buộc hay chiêu mộ, nhưng là loan báo
một lời mời gọi đến từ nơi xa hơn chúng ta. Chúng ta được sai đi trên những con
đường loài người; những người được mời gọi đến cơ may cuối cùng nầy có nguy cơ
không tìm gặp trong các nhà thờ của chúng ta. Họ ở rất xa. Họ sẽ không đến một
mình. Phải đi tìm họ nơi họ đang ở. Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta
không phải thứ mục vụ chờ đợi mà là một mục vụ tìm kiếm.
Thánh Thể qui tụ chúng ta
mỗi tuần chính là bữa ăn của Giao Ước mới. Đó là lễ Tình yêu của Thiên Chúa đối
với chúng ta. Cũng thế, tất cả những người được mời đã không
trả lời vì không có giờ, vì không muốn; vì quá bận rộn. Nhưng Chúa tiếp tục mời
gọi chúng ta. Phúc cho chúng ta vì được nuôi bằng Lời và Mình Thánh Ngài. Với
Ngài chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn cho sứ mạng mà chúng ta được trao phó.
ĐÀO SÂU
DỰ TIỆC CÁNH CHUNG
Is 25, 6-10a Bữa tiệc cánh
chung
Ps 23, 1 Lạy Chúa, bên Chúa chúng
con sẽ được sống muôn đời
Pl 4, 12-20 Sự giàu có đích thực
trong Đức Ki tô
Mt 22, 1-14 Mt 22, 1-10 Dụ ngôn những người dự
tiệc cưới
1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: DỰ TIỆC CÁNH CHUNG. Tiên tri I-sai-a mơ đến ngày
mà Thiên Chúa mời tất cả mọi người dự tiệc cánh chung (Bđ1), đó là niềm vui ơn
cứu độ mà chính Đức Giê-su sẽ mang đến (BTM). Thánh Phao-lô nhắc lại ý của
Thiên Chúa là muốn cho
mọi người được phong phú theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su (Bđ2).
2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một (Is 25, 6-10a) như thế nào?
THƯA: Bốn chương 24-27 sách tiên tri I-sai-a được gọi
là “Khải huyền I-sai-a” hướng về lúc cuối cùng của thế gian trong đó,
tiên tri mạc khải các biến cố xảy ra vào lúc tận cùng của lịch sử. Trong giờ
phút khó khăn của dân tộc, tiên tri mời gọi mọi người hãy đặt trọn niềm tin
tưởng vào Thiên Chúa là Đấng muốn thiết lập một giao ước tình yêu với họ.
Chương 25, trong đó có bài đọc một, bắt đầu bằng một hành động tạ ơn: “Lạy
Đức Chúa, Ngài là Thiên Chúa của con, con suy tôn Ngài, con xưng tụng danh Ngài
vì Ngài thực hiện những kì công, những chương trình thực hiện từ ngàn xưa thật
là bền vững” (25, 1).
3. HỎI: Các chương trình Thiên Chúa thực hiện từ ngàn xưa là gì?
THƯA: Đó là qui tụ nhân loại thành một để cùng tham dự một bàn
tiệc, cùng cử hành một lễ hội lớn trên núi thánh của Thiên Chúa. Hình ảnh ấy
đáp ứng ước vọng của mọi người là được hưởng một nền hòa bình viên mãn, không còn chiến tranh, đau khổ và bất
công.
4. HỎI: Đâu là nền tảng của tương lai đầy lạc quan ấy?
THƯA: Đó là lời Thiên Chúa hứa như lời tiên tri xác quyết dựa vào
kinh nghiệm về những gì Người đã thực hiện: “Chính Người đã hứa như thế”
(Is 25, 8). Thiên Chúa đã hứa thì thế nào Người cũng sẽ thực hiện điều Người đã
hứa.
5. HỎI: “Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25, 8) có
nghĩa là gì?
THƯA: Đối với người đương thời với tiên tri, sống viên mãn là sống
trong Giao Ước với Thiên Chúa trên trần gian nầy. Và chết tức là cắt đứt Giao
Ước với Người. Vì thế, điều mà I-sai-a loan báo là sẽ đến ngày con người được
sống trong bình an với Thiên Chúa và bản thân mình khi bạo lực, hận thù, bất
công, chiến tranh và sự chết sẽ bị tiêu diệt.
6. HỎI: Bài đọc thứ nhất (Is 25, 6-10) cho chúng ta thấy
Thiên Chúa là đấng nào?
THƯA: Bài đọc thứ 1 cho chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đức
Chúa các đạo binh, là Đấng quan tâm đến những nỗi buồn khổ của nhân loại nên sẽ
đứng ra tổ chức một bữa tiệc linh đình, đầy thịt béo và rượu ngon cho muôn dân.
Nói theo Thánh Phao-lô (Pl 4, 12-14. 19-20), Thiên Chúa “sẽ thoả mãn mọi nhu
cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô
Giê-su” (bải đọc 2).
7. HỎI: Trong Is 25, 6-10, tiên tri I-sai-a mô tả một bữa
tiệc thịnh soạn trong đó tất cả mọi dân tộc trên mặt đất đều được mời gọi tham
dự. Bữa tiệc ấy biểu tượng điều gì?
THƯA: Hình
ảnh bữa tiệc cánh chung là biểu tượng cho thấy các ân sủng thời thiên sai dành
cho tất cả mọi người được Đức Ki tô cứu chuộc; ngòai ra đó là hình ảnh cõi phúc
vĩnh cữu, khi Thiên Chúa lau sạch nước mắt của con người.
8. HỎI: Nội dung bài đọc hai (Pl 4, 12-20) như
thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô nhắc lại ý của Thiên Chúa là
muốn thoả mãn mọi nhu cầu của con người một cách
tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su
9. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Mt 22, 1-14) như
thế nào?
THƯA: Dụ
ngôn Tiệc cưới Hoàng gia (22,
1-14) đi liền sau dụ ngôn những người Thợ Vườn Nho (21, 33-46) và là dụ ngôn
cuối cùng trong loạt ba dụ ngôn liên quan với nhau. Dụ ngôn những người Thợ
Vườn nho nói đến việc chuyển giao Nước Trời cho một dân tộc biết sinh hoa trái
cho Thiên Chúa (21, 43). Dụ ngôn Tiệc cưới Hoàng gia tiếp tục đề tài ấy: những
người “tốt và xấu ở các ngả ba đường” được mời vào dự tiệc cưới. Họ thế chỗ
những người đã được mời mà không đến. Có 4 ý chính su đây : 1) Mở
(22, 1); 2) Dụ ngôn Tiệc cưới không thành vì những người được mời không đến
(22, 2-7); 3) Dụ ngôn Tiệc cưới với những khác đến dự (22, 8-13); 4) Kết luận:
Lời dạy của Đức Giê-su (22, 14).
10. HỎI: Bài tin mừng có thể gồm mấy dụ ngôn?
THƯA: Bài
tin mừng được cho là có hai dụ ngôn được ghép chung lại. Một dụ ngôn nói về
những người được mời dự tiệc cưới (22, 2-10), và một dụ ngôn nói về việc mặc y
phục lễ cưới cho xứng đáng (2, 11-13).
11. HỎI: Bài tin mừng có dùng hình ảnh ‘tiệc cưới’ trong Cựu Ước
không?
THƯA: Có. Hình ảnh tiệc cưới trong Cựu Ước gợi lên giao ước giữa
Thiên Chúa và dân của Người. Giao Ước mới được hoàn thành trong Đức Giê su Ki
tô, hôn phu trung tín của Hội Thánh.
12. HỎI: Các nhân vật trong Dụ ngôn tượng trưng cho ai?
THƯA: Trong dụ ngôn, nhà Vua tượng trưng cho Thiên Chúa, hoàng tử
tượng trưng cho Đức Giê-su, các người được mời dự tiệc cưới tượng trưng cho dân
Ít-ra-ên, và các gia nhân tượng trưng cho các tiên tri và sau đó là các tông
đồ. Còn tất cả những người mà các gia nhân tìm thấy và mời giữa đường tượng
trưng cho các dân ngoại và tất cả chúng ta.
13. HỎI: Bài Tin mừng gửi đến sứ điệp gì?
THƯA: Tin mừng mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta là lời mời gọi
từng người tham dự vào tiệc cưới Nước Trời. Tin mừng ấy hệ tại ở việc Thiên
Chúa không chọn những người dự tiệc theo công trạng của họ, nhưng theo tình yêu
của Ngài. Đức Giê-su không đến cho những người lành mạnh mà cho những người đau
yếu.
14. HỎI: Tại sao Đức Giê-su lựa chọn hình ảnh tiệc cưới?
THƯA: Đức Giê-su lựa chọn hình ảnh tiệc cưới vì đó là lễ hội của
tình yêu và tình yêu ấy được tự do lựa chọn. Thiên Chúa mời gọi chúng ta tham
dự một tiệc cưới tình yêu không bao giờ chấm dứt.
15. HỎI: “Vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử” chỉ điều gì?
THƯA: Tiệc cưới cho hoàng tử chỉ Giao Ước giữa Thiên Chúa và loài
người được thực hiện nơi Đức Giê-su Kitô. Chính Ngài trong các sách Tin Mừng
nhất lãm đã tự gọi mình là hôn phu.
16. HỎI: Tại sao những người trước tiên được mời dự tiệc cưới là
người Do thái?
THƯA: Vì Thiên Chúa đã dành ưu tiên cho dân Ít-ra-ên như lời Người
phán với ông Abraham: “Nhờ ngươi mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”
(Stk 12, 3). Như thế, theo thánh ý Thiên Chúa, toàn thể nhân loại được cứu độ
qua dân Ít-ra-ên.
17. HỎI: Thái độ từ khước đến dự tiệc nói lên điều gì?
THƯA: Thái độ từ khước đến dự tiệc cho thấy đa số người Do thái đã
từ chối chấp nhận tin vào Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Cũng như sự từ khước của
những người được mời đã là cơ hội cho những người khác được mời thế chỗ, thì
chính sự từ khước của người Do thái đã mở đường cho dân ngoại được vào Nước
Trời.
18. HỎI: “Y phục lễ cưới” là gì?
THƯA: “Y phục
lễ cưới” là cụm từ chỉ y phục của những người đã được rửa tội. Vậy phần hai của
dụ ngôn liên quan đến những người đã chịu phép rửa tội. Họ là những người đã
được vào phòng cưới. Và điều Đức Giê-su nhắc lại ở đây chính là những đòi hỏi
của của bí tích rửa tội. “Không phải những người nói: lạy Chúa, lạy Chúa
được vào Nước Trời, nhưng phải thi hành thánh ý của Cha trên trời” (Mt 7,
22).
19. HỎI: Tại sao nhà vua giận dữ như thế?
THƯA: Bởi vì áo cưới cũng chính
là biểu tượng cho đời sống mới mà người ki tô hữu phải bắt đầu. Khách mời tỏ ra là một người giả dối, một
người nói rằng mình là người ki tô hữu mà sống như một người không tin có Thiên
Chúa. Nếu gặp gỡ Thiên Chúa rồi mà không có một đời sống mới phù hợp, thì dù có
gặp gỡ Ngài trong các Bí tích, có làm nhiều việc đạo đức, thờ phượng, thì cũng
giống như người không mặc áo cưới. Thiên Chúa tự hiến thân trở nên ‘Hôn phu’
(Chồng) của nhân lọai, nhưng nhân loại lại không biết hiến thân cho Thiên Chúa.
20. HỎI: Dụ ngôn của Đức Giê-su dạy cho chúng
ta biết Thiên Chúa là ai?
THƯA: Thiên Chúa là Nhà Vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử là
Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en đã được Thiên Chúa ưu tiên mời tham dự tiệc cưới của
Ngôi Lời nhập thể, nhưng họ đã coi thường lòng ưu ái của Thiên Chúa và khước từ
lời mời của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa trừng phạt họ và chuyển lời mời đến hết
mọi người mọi dân vào dự tiệc cưới.
21. HỎI: Mục đích của Đức Giê-su khi kể dụ ngôn Tiệc
cưới?
THƯA: Chúa
Giê-su dùng dụ ngôn tiệc cưới để giúp những người đồng hương Ít-ra-en (và nhiều
người khác trong mọi thời đại) nhận ra tội lỗi của họ là đã xem thường lòng ưu
ái và lời mời trân trọng của Thiên Chúa, và mời gọi họ mau mắn đáp lại tấm lòng
ưu ái và lời mời trân trọng của Ngài mà đến tham dự tiệc cưới với y phục tương
xứng.
22. HỎI: Chúng ta phải làm gì để đáp lại lời mời gọi than
dự tiệc cưới?
THƯA: Trước
hết chúng ta phải hiểu ý nghĩa của dụ ngôn: Tiệc Cưới của Hoàng Tử là Nước
Thiên Chúa, là Vương Quốc Tình Yêu mà Thiên Chúa muốn thiết lập cho muôn dân
nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chí Ái của Người. Kế đến, phải biết trân trọng tấm
lòng ưu ái và niềm vinh dự mà Thiên Chúa dành các Ki-tô hữu chúng ta, và sau
cùng là biết gác lại tất cả những bận tâm lo lắng trần gian mà đến tham dự Tiệc
Cưới Nước Trời với y phục lễ cưới đàng hoàng.
23. HỎI: Thế nào là y phục tương xứng?
THƯA:
Chúng ta phải tăng cường đời sống đức tin bằng cách củng cố lòng tin-cậy-mến mà
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa qua những việc làm
cụ thể, như quan tâm giúp đỡ yêu thương người khác nhất là người nghèo, hay
tích cực góp công xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương.
24. HỎI: Dụ ngôn nầy có phải lời kêu gọi tất cả mọi người
đến ơn Cứu độ không?
THƯA: Đúng, dụ ngôn trình bày nội dung chính yếu của lời Rao
giảng Đức Kitô là: “Ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người (Phổ quát tính của
ơn cứu độ)”, qua hình ảnh một ông vua mời mọi người đến dự tiệc cưới của hoàng
tử. Đám cưới vương giả nầy được chuẩn bị kĩ lưỡng và phong phú, không thiếu
những con vật béo mập để làm hài lòng mọi thực khách. Tuy nhiên, các thực khác
khinh dễ nhà vua, từ chối đến dự tiệc. Họ quan tâm đến công việc của mình hơn
là đáp lại lời mời gọi của nhà vua. Vì đám cưới không thể bị hủy bỏ, cũng không
thể dời lại nên vua sai gia nhân đi mời tất cả những người họ gặp trên đường.
Khi phòng tiệc đã đầy, vua đi thăm các khách mời, xem họ có ăn mặc đúng phép
không. Khi thấy một người không mặc “y phục lễ cưới”, nghĩa là không có áo được
rửa sạch trong máu Con Chiên, hay nói cách khác, không có áo biểu tượng của
hiền thê con chiên. Đó là chiếc áo mà thánh Phao lô ám chỉ đến khi nói rằng: “Anh
em hãy mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27; Ep 4, 24). Nhà Vua liền nổi giận.
25. HỎI: Vậy trước lời mời
gọi đó, con người có thể từ chối không?
THƯA: Có. Sự từ chối của những người được mời đầu
tiên, hoặc sự từ chối gián tiếp của những người không sẵn sàng chấp nhận các
điều kiện của nhà vua (nghĩa là của Thiên Chúa) để có thể tham dự. Thật vậy,
nhà vua (Thiên Chúa không lấy mất sự tự do của chúng ta và để cho chúng ta hoàn
toàn có trách nhiệm) chỉ xác nhận sự sai lầm và gọi người đồng bàn bằng một
cách gọi tế nhị: “Nầy bạn..”. Cũng bằng cách xử sự ấy, Đức Giê-su gọi
người môn đệ phản bội trong buổi tối ở vườn cây dầu.
GLCG 546 2613 542. Đức Giê-su đã dùng các
dụ ngôn kêu gọi mọi người vào Nước Trời. Dụ ngôn là nét tiêu biểu
trong cách giảng dạy của Người (x. Mc 4, 33-34). Qua các dụ ngôn, Người mời họ
dự tiệc Nước Trời (x. Mt 22, 1-14), nhưng cũng đòi họ phải có một chọn lựa
triệt để : phải "cho đi tất cả" để có được Nước Trời (x. Mt 13,
44-45); lời nói suông chưa đủ, cần phải hành động (x. Mt 2l, 28-32). Các dụ
ngôn như những tấm gương nhờ đó con người nhận diện chính mình : đón nhận Lời
như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mầu mỡ? (x. Mt 13, 3-9) làm gì với những nén
bạc đã nhận? (x. Mt 25, 14-30). Đức Giê-su và sự hiện diện của Nước Trời giữa
thế gian là trọng tâm của các dụ ngôn. Phải trở nên môn đệ Đức Ki-tô mới
"thấu hiểu các mầu nhiệm Nước Trời" (Mt 13, 11); còn đối với
"người ngoài" (Mc 4, 11) mọi sự đều bí ẩn (Mt 13, 10-15).
Lm. Paul Nguyễn văn Đông