Suy
Niệm Lời Chúa Nhật Tuần IV Mùa Chay Năm C
HỒI TÂM TRỞ VỀ VỚI CHÚA CHA ĐẦY LÒNG TỪ BI THƯƠNG XÓT
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 15, 1-3.11-32
(1)
Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần
Đức Giê-su mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và
các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn
uống với chúng. (3) Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một
người kia có hai con trai. (12) Người con thứ nói với cha rằng: Thưa
cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của
cải cho hai con. (13) Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi
trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của
mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng
ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu,
(15) nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra
đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy
bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết
bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây
lại chết đói ! (18) Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với
Người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, (19) chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha
vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng
xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ
anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha,
con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha
nữa...” (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo
đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân
cậu. (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc
ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay
lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của
ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca
nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì.
(27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê
béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh cả liền nổi
giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời
cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào
trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng
với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của
cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn
mừng !”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng
ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng
ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống,
đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH: Trong
bài Tin
mừng hôm nay đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp
theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một
người cha (c 11-32), gồm hai phần chính như sau:
- THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA ĐỐI VỚI ĐỨA CON
THỨ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu
của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang
trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha
thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ
chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON TRƯỞNG: Sau khi
biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn
mở tiệc ăn mừng, thì người con trưởng đã tỏ thái độ hẹp hòi và ganh
tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, đã đối xử
bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã ra gặp
và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy
noi gương ông để bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết
mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng
Nhất lãm (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca) mới đề cập đến hạng người thu
thuế này (x. Mt 9, 9 ; Mc 2,14 ; Lc 5, 27). Họ bị coi là tay sai của
chính quyền Rô-ma và bị tố cáo đã lạm thu thuế để hưởng lợi bất
chính (x. Lc 19, 8b). Dân Do thái liệt họ vào hạng người tội lỗi xấu
xa, ngang hàng với bọn trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21, 31-32). + Những
người tội lỗi đến nghe Đức Giê-su giảng: Đây là các tội nhân
đã phạm tội công khai như: Gái điếm (x. Lc 7, 37), người phụ nữ Sa-ma-ri-a
có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4, 18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga
8, 3), kẻ bị quỷ ám (x. Lc 8, 2) kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15, 13.30),
hay tên gian phi (x. Lc 23, 39). + Những người thuộc phái Pha-ri-sêu
và các Kinh sư: Pha-ri-sêu (hay Biệt phái) là những người Do
thái đạo đức, sống tách biệt khỏi quần chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ)
là những nhà trí thức, xuất thân từ trường Kinh thánh. Họ thường giải
thích Kinh thánh trong các hội đường Do thái vào các ngày Sa-bát. Họ
được dân chúng kính trọng gọi là “Ráp-bi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,
7). + Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng:
Người Pha-ri-sêu và Kinh sư trách Đức Giê-su vì đã thu nhận Lê-vi là
người thu thuế làm môn đệ, lại còn đến ngồi đồng bàn ăn uống với
bọn thu thuế bạn bè của anh ta (x. Lc 5, 27-32).
- C
11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn
chỉ có trong Tin mừng Lu-ca, nói lên lòng bao dung của một người cha
ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các
người thu thuế tội lỗi.
- C
14-16: + Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ
này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người
dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Mô-sê
coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần
minh của họ (x. Đnl 14, 8). + Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét
cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây
không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C
17-20a: + Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan
cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái
của mình. + Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh
trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính
tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối
của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24: + Ông chạnh lòng
thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó.
Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Na-im (7, 3) và câu chuyện
người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành (10: 33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh
lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình
thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa
con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con
để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói
lời thú tội. + Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau
đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói
hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41: 42) cho thấy người
cha đã trả lại địa vị làm con, dù anh ta chỉ dám xin trở thành người làm công
cho cha. “Giết bò béo” (St 18, 7) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn
chia sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ một người tự do, khác với nô
lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận
lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền
làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103: 13).
- C 25-28: + Người con cả: Tượng
trưng cho các đầu mục dân Do thái. + nổi giận và không chịu vào
nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh.
Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của
cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để
ăn mừng nó trở về.
- C 29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người
con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống
như người Pha-ri-sêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người
lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18, 11).
- C
31-32: + Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của
cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức
về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng. + Nhưng
chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả
hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với
cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về. + “Em con đây”: Ong
chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha
đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã chết mà nay lại sống,
đã mất mà nay lại tìm thấy”: Qua câu này Đức Giê-su gián tiếp
trả lời cho những tiếng xầm xì của người Pha-ri-sêu và mời họ chia
sẻ tâm tình của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
4. CÂU HỎI:
HỎI 1) ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CÁC NGƯỜI PHA-RI-SÊU
VÀ KINH SƯ LÀ GÌ?
ĐÁP:
* VỀ ƯU ĐIỂM: Các người Pha-ri-sêu và
Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua
việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6, 2.5.16).
Họ am tường và tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhất là luật
về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa
bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa...). Về giáo lý họ cũng tin như Đức
Giê-su đã giảng: tin có thiên thần (x. Cv 23, 6-8), tin linh hồn bất tử
và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại…
* VỀ KHUYẾT ĐIỂM: Đức Giê-su đã nhiều
lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về
thói đạo đức giả. Chẳng hạn: Họ chỉ giữ Luật theo hình thức bề
ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong
hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23, 5-6);
Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và
khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ
cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các
điều chính yếu của Luật (x. Mt 23, 23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan
Lề Luật trong từng chi tiết đang khi chính họ lại không hề tuân giữ (x.
Mc 12, 38-40).
HỎI 2) THÁI ĐỘ CỦA CÁC PHA-RI-SÊU VÀ KINH SƯ ĐỐI
VỚI ĐỨC GIÊ-SU THẾ NÀO?
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai
(x. Mc 11, 27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt
lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên
Sai (x. Mc 8, 11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng
đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập
(x. Mc 3, 23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng
Hội Đồng Do thái ở Giê-ru-sa-lem để bắt Đức Giê-su và kết án tử hình
cho Người cách bất công (x. Lc 22, 47-53; 23, 1-7.18-25). Họ tiếp tục
chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23, 35). Tuy
nhiên, trong số các Pha-ri-sêu cũng có một số người tin Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai và sau này đã trở thành môn đệ của Người như: Ông Ni-cô-đê-mô
(x. Ga 3, 1), Ga-ma-li-en (x. Cv 5, 34-39) và nhất là tông đồ Phao-lô (x.
Cv 22, 3).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì
người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và
hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG CHA BAO DUNG:
RI-SỚT PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một
câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT (David). Cậu ta đã nghe
theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi
đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực,
cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi
và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội
và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư
ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe
lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng
lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy
cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé !”.
Vài ngày sau, Đe-vít lên xe lửa để trở về
nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục
hiện ra trong tâm trí cậu bé Đe-vít: Lúc thì trên cây táo có cột một
miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp
đi ngang qua nhà, trái tim Đe-vít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người
ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này
không ạ?” Được ông ta đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt,
ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho
cháu biết trên cành cây ấy có cột một miếng vải trắng nào không nhé ?”.
Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đe-vít nhắm mắt lại rồi run
giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo
cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu
bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải
trắng cả !”
Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải
trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn
cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) LÒNG MẸ THƯƠNG CON THỂ HIỆN RA SAO ?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong
lòng mẹ,
chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được
lòng
mẹ không ?”. Bà mẹ đáp : “Mẹ không biết,
nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó ?” Cô bé nhướng mắt
chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em
sung
sướng kêu lên : “Mẹ ơi ! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi.
Trong mắt mẹ, con chỉ nhìn thấy duy một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ !”.
Đối với bà mẹ thì đứa con là tất cả. Mỗi
người chúng ta cũng là con do Chúa sinh thành và rất mực yêu thương chúng ta.
3) CẢM
NGHIỆM TÌNH THƯƠNG CỦA CHA GIÚP CON DỄ HOÁN CẢI:
GAN-DHI kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông
đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy
áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết
lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư ông cũng hứa sẽ
không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường.
Gan-dhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha
đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc
ông đang đọc thì Gan-dhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gan-dhi
cũng không cầm được nước mắt. Cuối cùng khi đọc xong, người cha đã không hề nổi
giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và cảm thấy sung sướng
vì con mình đã biết hối hận về hành động xấu đã làm.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha tội của
cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gan-dhi viết : "Chỉ có người
nào đã trải qua cảm nghiệm về một tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi".
4) THA THỨ LÀ QUÊN MỌI TỘI KẺ KHÁC ĐÃ XÚC PHẠM ĐẾN
MÌNH:
Một bà già nọ không mấy
ngày là không đến gõ cửa gặp cha xứ, kể cho ngài nghe những giấc mơ của bà. Một
hôm bà cho biết đêm qua Chúa lại hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng tiếp tục
đến quấy rầy nữa, cha xứ bảo: ”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, thì bà hãy hỏi Chúa:
“Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? Sau đó bà mới được tới đây kể lại cho tôi
nghe nhé”. Rồi mấy ngày sau đó không thấy bà già ấy đến nữa. Cha xứ mừng
thầm vì kế hay của mình. Nhưng một tuần sau thì thấy bà quay trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua
Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có nhớ hỏi Chúa
điều tôi đã dặn bà không ?
- Thưa cha
có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
- Thế bà đã hỏi Chúa thế
nào ?
- Thì con hỏi y như Cha đã
bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
- Vậy Chúa có trả lời
không ?
- Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ bắt đầu
lo lắng thật sự. Cha gặng hỏi:
- Chúa nói sao ?
- Chúa nói: ”Ta đã quên hết
rồi”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY Phanxicô
X. Nguyễn
văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1)
Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng
chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để được
giao hòa với Chúa ? Tại sao ? 2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn
năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm
nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân (15, 1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương”
và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca
tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“.
Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó chúng
ta biết mình phải làm gì :
1) Thái độ sám hối
quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15, 12-19) : Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia
tài cho mình ngay khi cha còn sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi
phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách thì anh phải
đi làm thuê làm mướn và bị người chủ dân ngoại khinh dể và đối xử tệ hơn một
con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm
đứng dậy quay về xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm
công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với
quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung
của người cha nhân hậu (15, 20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương,
ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ
xa, ông đã nhận ra nó và “chạnh lòng thương”: Ông không trách mắng hay trừng
phạt con, mà chạy tới ôm chầm lấy cổ nó hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa
vị làm con cho nó khi truyền gia nhân thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón
tay, xỏ giầy vào chân và mở tiệc mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với
lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng, nói
lên tình thương bao dung của cha.
3) Thái độ hẹp hòi của
người con trưởng (15, 25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về gần đến nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi
ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà
còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận cha bằng cách không thèm đi vào
nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha mà anh cho là bất
công không thể chấp nhận được (15, 29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố
gắng giải thích cho anh hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha
đều là của con “ (Lc 13, 31). Dụ ngôn kết thúc bằng
lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em
con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp
nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến người cha quên đi mọi lỗi lầm của đứa
con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt là đứa con yêu mà ông hằng mong
nó mau trở về, đứa con ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở
tiệc liên hoan, cho đàn ca múa hát, để ăn mừng nó trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về,
nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới trở về được cha mừng rỡ hân hoan, nên chẳng
những anh không vui mà còn tỏ thái độ hờn trách khiến cha phải ra phân trần,
năn nỉ và mời anh ta vào trong nhà với ông để gặp lại đứa em "đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với anh con cả
rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13, 31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của
người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất
bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng
luôn sẵn sàng tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được bài Thánh thi
diễn tả như sau: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv
135).
4) Làm gì để đáp lại
Lòng Chúa Thương Xót ? :
+ Dụ ngôn người cha bao
dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ hay thương xót của Thiên
Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la
như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của
Ngài : Ngài tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi !
+
Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng như tuyết. có
thắm tựa vải điều, cũng nên trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có
nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn sâu nặng hơn gấp bội. Dù
tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ
đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở
về.
+
Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của
chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để
đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa ? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay
về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng
thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót những người đau khổ và quảng đại
tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và
bạn bè đang lạc xa Chúa để họ mau hồi tâm trở về để nhận được ơn tha thứ của
Chúa.
5. LỜI CẦU:
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi
nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giê-su đến
thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu
lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha
đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về làm hòa với
Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc
khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể
hiện được tình thương bao dung của Cha, nên đã trình bày về Cha như một
“ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để làm cho họ khiếp sợ phải hồi tâm sám
hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng
bạo lực đe nẹt con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha
biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm
được tình thương bao dung của cha và sớm quay về giao hòa với Cha trong Mùa
Chay này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM