Suy Niệm Lời Chúa Nhật X
Thường Niên Năm C
Chúng ta tiếp nhận
Chúa Giê su bằng tinh thần nào? Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi về bản chất
các mối tương giao của chúng ta với Chúa Giê su và đồng thời, về giá trị cuộc
sống Đức Tin của chúng ta. Rất thường, chúng ta tự coi mình như là những “người
chiếm hữu” Thiên Chúa, và xác tín chúng ta đáng được hưởng hồng ân của Người.
Còn Chúa Giê su, Ngài tiếp nhận tất cả những ai đến với Ngài bằng tâm hồn sám
hối và khiêm nhu, vì Ngài là Thiên Chúa hay thương xót và rộng lượng.
Sách 2 Samuel
12,7-10.13
Vua Đa vít đã phạm tội
ngoại tình với Bà Bết sa bê và, nặng nề hơn hết, bày mưu lường gạt chồng bà đi
vào chỗ chết để chiếm đoạt bà. Tiên tri Na than đến báo cho Đa vít hình phạt mà
ông phải chịu. Nghe xong, vua Đa vít đã khiêm nhường xưng thú tội lỗi và sám
hối. Và Thiên Chúa đã không chối từ một tâm hồn tan nát sám hối ăn năn, và đã
tha thứ cho ông.
Thánh Vịnh 31
Vô cùng hối hận, tác
giả Thánh Vịnh xưng thú tội lỗi và đã tìm được nơi Thiên Chúa niềm vui hòa
giải. Ông đã khám phá lòng quảng đại của Thiên Chúa và hứa rằng từ nay về sau,
ông sẽ để cho Lòng Thương xót của Thiên Chúa hướng dẫn mình.
Thư gửi tín hữu Ga la ta 2,16.19-21
Thánh Phao lô không
ngừng chống lại thói quen mặc cả cố hữu nơi người Ga la ta. Họ tin rằng họ sống
tốt, nên có quyền đòi được Thiên Chúa ban thưởng cho cân xứng. Thánh Phao lô
nhắc cho họ nhớ rằng, Chúa Giê su đã loan báo Tình yêu biếu không của Thiên
Chúa và chỉ nhờ Đức tin chúng ta mới có thể đón nhận Tình Yêu ấy.
Tin mừng Lc 7, 36-50
NGỮ CẢNH
Đoạn tin mừng thuộc
vào phần cuối chương 7 tin mừng Luca. Trước đó, Chúa Giê su đưa ra nhận xét về
thế hệ đương thời của Ngài (7, 31-35). Trước nữa là các tường thuật về tương
quan giữa Chúa Giê su và ông Gioan Tẩy giả (7,1 8-30), đặt sau hai phép lạ chữa
người nô lệ của viện đại đội trưởng (7, 1-10) và cho con trai bà góa thành Na in
sống lại (7, 11-17).
Câu truyện nầy giống
vơi bữa tiệc ở Bêtania mà các Tin mừng kia thuật lại (Mt 26, 6-13; Mc 14, 3-9; Ga
12, 1-8), nhưng không thấy có trong Lc. Trong khi cử chỉ của cô Maria báo trước
cái chết và phục sinh của Chúa Giê su, thì người phụ nữ tội lỗi Galilê nầy lại
giúp cho Chúa Giê su một cơ hội để tỏ cho biết Ngài đã tiếp nhận người tội lỗi
và cứu chữa họ như thế nào. Đó là một điều gây phẫn nộ nơi người Biệt phái
(5, 17, 33).
TÌM HIỂU
Có người thuộc nhóm Pha ri sêu:
người nầy ý thức làm điều mà Thiên Chúa chờ đợi: ông giữ luật nên đứng đằng xa
để tánh mọi ô uế; tắt một lời, ông là “người công chính”. Hơn nữa, ông là một
người niềm nở và hiếu khách, vì đã mời Chúa Giê su.
Mời: tác giả Luca ba lần kể
chuyện một người Pha ri sêu mời Chúa Giê su (x. 11, 37; 14, 1). Và Chúa Giê su dù
bị người Pha ri sêu trách cứ là ăn uống “với hạng người thu thế và tội lội”
(5, 30), vui lòng chấp nhận ngồi đồng bàn cùng những người Pha ri sêu. Nhưng mối
tương quan không phải là không có vấn đề. Các cuộc trao đổi ý tưởng chứng tỏ
rằng Chúa Giê su và người Pha ri sêu theo những lối sống khác biệt.
Vào bàn ăn: Chúa Giê su dùng bữa theo
kiểu cách người La mã được đưa vào Palestina: nằm trên một đi văn hay trên một
chiếc chiếu, nghiêng mình tựa vào cùi chỏ trái và duỗi chân ra phía ngoài. Tư
thế ấy cắt nghĩa việc người phụ nữ có thể lấy nước mắt rửa chân cho Chúa Giê
su, lau chân, hôn chân và xức dầu thơm.
Người tội lỗi: cả kinh thành đều
biết rõ cô ta là một người có đời sống không tốt. Ông Pha ri sêu đã xếp cô ta
vào số những kẻ tội lỗi, và chính vì thế nên ông ta tự cho là ‘công chính’
không tiếp xúc với hạng người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giê su không dừng lại ở
tai tiếng về người phụ nữ nầy. Ngài để cho cô ta lại gần mình, và như thế mở ra
cho cô ta con đường tha thứ và cứu độ.
Khóc: có lẽ đây là những giọt lệ
thống hối buồn sầu vì tội lỗi. Tuy nhiên chắc chắn còn nhiều điều khác nữa bộc
lộ qua thái độ của người phụ nữ: tâm hồn xáo trộn vì bị khinh bỉ, bị khước từ,
khiến cô ta nghĩ rằng chỉ có người khách của ông Pha ri sêu mới là người tiếp
nhận và cứu thoát cô.
Giây phút chính yếu là
cử chỉ của người phụ nữ tội lỗi (7, 37-38). Cô ta im lặng, không thốt lên một lời nào, cả Chúa Giê su
cũng thế. Còn những gì tiếp sau cũng chỉ là một lời lý giải (7, 39-47) trước khi
kết luận (7, 48-50).
Ngôn sứ: ông Pha ri sêu tức giận.
Ông không hiểu thái độ của Chúa Giê su, dù biết cô ta, lại để cho cô ta làm
những điều như thế. Có thể không biết, nhưng vì tự cho là tiên tri, Ngài phải
biết cô ấy là ai. Và nầy Chúa Giê su sắp cho thấy mình là một tiên tri thực sự.
Ngài không nói ra lí lịch của người phụ nữ, điều chủ yếu không nằm ở đó. Trái
lại Ngài làm sáng tỏ điều đang diễn ra trong nội tâm của người Pha ri sêu và cô
phụ nữ, không phải để lên án, mà là để chỉ cho thấy đâu là cách cư xử dẫn đến
sự sống.
Si môn: Chúa Giê su chấm dứt sự im
lặng. Người đón Ngài vào nhà tên là Si mông, cũng như người sẽ đón Ngài ở Bê
tha nia (Mc 14, 3; Mt 26, 6). Đó là điểm chug cho cả hai trình thuật.
Chúa Giê su ngỏ lời
với ông để cho ông một giáo huấn về tình yêu và sự tha thứ, và bắt đầu bằng một
dụ ngôn. Ông Simon hiểu rằng dụ ngôn nhắm đến mình: cách xử thế của Chúa Giê
su nhắc lại lời nói của tiên tri Na than với vua Đa vít (2 Sm 12, 1-9).
Một chủ nợ: dụ ngôn gợi lên một kinh
nghiệm thường tình của mọi người: việc tha nợ gợi lên một tình yêu biết ơn.
Theo cách nghĩ hợp lí, thì số nợ được tha càng to thì tình yêu ấy càng lớn.
Chính ông Si mông rút ra kết luận, và điều đó có thể đặt ông trên đường sám
hối. Nhưng người công chính phán đoán người khác và xét nét tội lỗi của họ, rồi
chính bản thân không cảm nhận được cần phải được tha thứ, không đi vào trong
chân lí của tình yêu; Chúa Giê su lặp lại kết luận nầy trong c. 47: tha ít gợi
lên ít tình yêu.
Người phụ nữ: cảnh tượng nầy còn
đề ra một giáo huấn khác về tình yêu và sự tha thứ. Giữa dụ ngôn và kết luận
cho thấy tình yêu như là hậu quả của sự tha thứ, Luca đưa ra một khai triển
trong đó ông lấy cách cư xử của người phụ nữ làm thí dụ. Qua đó, ông nêu bật ba
điểm: (nước mắt, hôn, dầu thơm) và đối chọi với cách xử sự khô khan và lạnh
lùng của người Pha ri sêu. Đối với Chúa Giê su cũng như trong trường hợp của
người phụ nữ, rõ ràng là tình yêu đem lại ơn tha thứ. Cả hai chân lí bổ túc cho
nhau.
Không hề có mâu thuẩn.
Tình yêu ấy là sự đáp trả tình yêu mà Chúa Giê su dành cho cô ta khi tiếp nhận
cô ngay khi còn là tội nhân. Cô đã bị thu hút bởi nhân vật được coi là “bạn của
những kẻ tội lỗi”. Bị người Pharisêu xét đoán, cô lại tỏ ra lớn hơn người đoán
xét mình, nhờ vào lời Chúa Giê su nói. Cô thật sự gần Chúa Giê su hơn là người
Pharisêu.
Tội: dụ ngôn còn đi xa hơn. Ai là người chủ nợ? Khi Chúa Giê su nói: “Tội con đã đựơc tha”, những người
được mời hiểu ngay rằng Chúa Giê su chính là đấng tha tội như Thiên Chúa. Chủ
nợ là Thiên Chúa tha tội trong con người của Chúa Giê su.
Lòng tin: x. 5, 20; 7, 9. Lời nầy là
chìa khóa để hiểu toàn thể câu chuyện. Chính lòng tin đã hướng dẫn người phụ nữ
đến với Chúa Giê su; chính lòng tin đã giúp cô ta vượt mọi cấm kị mà trong đó
người Pha ri sêu đã tự giam mình; chính lòng tin đã gợi hứng cho cô có những
hành vi tự phát ấy. Lòng tin của cô là một đức tin yêu mến qua đó cô đã nhận ra
nơi Chúa Giê su là sứ giả của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Bình an: tội nhân có thể ra đi với
sự bình an của Thiên Chúa trong lòng. Cô đã được đổi mới và được thanh luyện
bởi sự bình an đó. Cuối cùng cô là chính mình, còn người Pha ri sêu trái lại
không còn ai nói đến nữa.
Theo kết quả nầy thì
chúng ta có thể so sánh câu chuyện nầy với dụ ngôn về người Pha ri sêu và người
thu thuế (18, 9-14).
Ở đọan trước, chúng ta đã thấy ông Gioan Tẩy
giả sai một vài sứ giả đến với Chúa Giê su để hỏi Ngài về sứ mạng của Ngài. Câu
chuyện bữa tiệc ở nhà ông Si mông mang lại một yếu tố cho câu trả lời. Người phụ
nữ tội lỗi thuộc thành phần những người bị lọai trừ mà Chúa Giê su đến để kêu
gọi làm môn đệ của Ngài. Cô đã dám sờ vào chân Chúa Giê su, trong khi ông Gioan
nói rằng ông không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài (3,16). Ông Gioan thắc mắc
và sai sứ giả đến; còn người phụ nữ tội lỗi đã tin và đích thân đi đến. Rõ
ràng: người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa thì lớn hơn ông Gioan.
Ở chỗ khác, Chúa Giê su đưa ra một phán quyết
khiến chúng ta suy nghĩ: “Những người thu thuế và bọn gái địếm đi vào Nước
Thiên Chúa trứơc các ông (Mt 21, 31).
SỨ ĐIỆP
Tất
cả các bài đọc chủ nhật hôm nay là một lời mời gọi khẩn thiết hãy tin vào sự
tha thứ của Thiên Chúa. Có nhiều người than thở trong nỗi chán chường tuyệt
vọng rằng: “Thiên Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi”. Sự thất vọng ấy khiến
họ mãi mãi lìa xa bí tích hòa giải. Họ quên rằng, Chúa Giê su không đặt một
giới hạn nào trong việc Thiên Chúa tha thứ cho những người có lòng sám hối.
Nhưng
làm sao chỉ cho họ thấy tội mình mà không làm họ mất
mặt và nhận chìm họ. Tiên tri Na than (bài đọc 1) được Thiên
Chúa sai đến với Đa vít thực hiện một sứ mạng vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Đa
vít đã phạm tội ngọai tình và giết người. Thay vì cáo tội ông, Nathan đã kể cho
ông nghe một dụ ngôn để giúp ông ý thức tội của mình. Và ông nói: “Người đã
giết con chiên duy nhất của người hàng xóm để đãi bạn, chính là Bệ hạ. Vua Đa
vít khiêm nhường sám hối và Thiên Chúa đã tha thứ cho ông.
Bài Tin mừng kể lại
một lần nọ, Chúa Giê su đã được một nhân vật quan trọng, một thủ lãnh người Pha
ri sêu mời dùng bữa. Với tư cách là chủ nhà, theo phép xã giao, lẽ ra ông phải tỏ ra là một người hiếu khách
lịch sự. Nhưng ông đã có cái nhìn khinh bỉ đối với người phụ nữ đến ngồi dưới
chân Chúa Giê su. Đối với ông thì rõ ràng, chỗ của bà không có ở đây. Bà thuộc
lọai những người tội lỗi không ai được tiếp xúc.
Còn điều mà ông Si mon
thấy trước tiên nơi người phụ nữ là tội lỗi. Bà bị đóng khung và nhận chìm
trong tai tiếng của bà. Vĩnh viễn bà đã bị xếp hạng. Ông Si mon không hiểu rằng
Chúa Giê su có thể chấp nhận để cho một người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng đến ngồi
dưới chân mình. Nhưng Chúa Giê su vẫn có tự do của mình. Ngài không sợ phải phá
bỏ những rào cản. Ngài tiếp nhận người phụ nữ nầy. Ngài chấp nhận những cách tỏ
lòng yêu mến, trân trọng và hối hận của bà. Thậm chí Ngài còn nói chuyện với bà
và tha thứ cho bà. Hơn nữa. Ngài đề cao tình yêu và đức tin của bà trước mhững
thực khách tự cho là có lương tâm chân chính và được đánh giá cao hơn.
Người phụ nữ tội lỗi
nầy biết mình là bệnh nhân về phần thiêng liêng. Bà đến với Chúa Giê su như
người ta đến với thầy thuốc. Giống như vua Đa vít, những dòng lệ chứng tỏ bà
thật lòng sám hối ăn năn những lầm lỗi quá khứ. Chính đó là điều mà Chúa Giê su
thấy trước tiên nơi người phụ nữ nầy. Và đối với chúng ta cũng thế. Sự tha thứ
của Ngài chỉ đến với chúng ta nếu như chúng ta tin tưởng và khiêm nhường nhìn
nhận tội lỗi trước mặt Ngài. Bấy giờ lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ giải
thoát và cứu độ chúng ta.
Để cho mọi người hiểu
rõ hơn, Chúa Giê su kể một dụ ngôn ngắn. Hai người cùng là con nợ của một chủ
nợ. Một người nợ 10 lần nhiều hơn người kia, nên khi được tha, người ấy sẽ mang
ơn và yêu mến chủ nợ hơn. Đừng vội cho rằng phần nợ ít hơn là của người biệt
phái. Có thể ông không có gì đáng trách trong cách sống, nhưng về tâm tình và
cách tiếp nhận Đức Ki tô, ông ta còn thiếu sót, vì ông đã bỏ qua những luật lệ
sơ đẳng nhất của lòng hiếu khách.
Bài tin mừng nầy mời
gọi chúng ta xét lại cái nhìn mà chúng ta thường có đối với những người chung
quanh. Rất thường chúng ta có một bảng xếp hạng trong đầu và trong tim chúng
ta. Ít nhiều chúng ta có khuynh hướng xếp hạng người ta theo cái mã bên ngòai
hoặc theo những gì mình nghe được. Khi chúng ta có những phán đóan tiêu cực về
một ai đó, chúng ta xếp hạng họ và chúng ta dìm họ. Và khi chúng ta gặp họ,
chúng ta không còn có một cái nhìn tiếp nhận nữa mà là một cái nhìn tạo khoảng
cách. Lí do là vì chúng ta có khuynh hướng xấu, lẫn lộn người có tội với hành
vi mà người đó mắc phải. Nathan và Chúa Giê su lên án những hành vi không thể
chấp nhận được, nhưng đối với các Ngài, người tội lỗi là một con người cần phải
được cứu vớt. Nếu Chúa Giê su chỉ cho chúng ta thấy tội lỗi của mình, thì không
phải là để dìm chúng ta, mà là để giúp chúng ta dễ nhìn nhận và sám hối tội
lỗi, và sẵn sàng tiếp nhận ơn tha thứ cho phép chúng ta tái sinh
Trước mặt Thiên Chúa,
tất cả chúng ta đều là những tội nhân. Như Vua Đa vít, chúng ta có thể nói:
“Người ấy chính là tôi!”. Nhưng ở đâu tội lỗi đầy tràn, ân sủng càng chan chứa.
Chúng ta được sai đi chính là để làm chứng điều đó trong thế giới bất khoan
dung đối với những người lầm lỗi ngày nay. Những ai đã hưởng được ơn tha thứ
của Thiên Chúa, đều trở thành một nhân chứng cho tình yêu của Người nơi anh em
mình. Chúng ta đừng quên rằng các nhân chứng lớn của đức tin là những tội nhân
đã được tha thứ. Chúng ta hãy nghĩ đến thánh Phê rô, thánh Au gu ti nô, thánh
Charles de Foucauld và nhiều vị thánh khác nữa.
Những thái độ ngoan cố
và những phán đoán vô trách nhiệm của chúng ta ngăn cản chúng ta hiểu tình yêu
nhưng không của Thiên Chúa mà chúng ta đã được hưởng. Chúng ta mù quáng đến nỗi
chúng ta không có ý thức về tình trạng tội nhân và nhất là về tình yêu thương
xót của Chúa đối với chúng ta. Chủ nhật nầy, chúng ta hãy tiếp nhận lời Ngài
mời gọi đi vào trong cuộc phiêu lưu lớn của lòng tha thứ
ĐÀO SÂU
THIÊN CHÚA
THA THỨ
2 Sm 12,7-10, 13 Vua Đa-vít nhận ra lỗi lầm của mình và Thiên
Chúa đã tha thứ
Tv 32,1-2, 5, 7+10b, 11 Lạy Thiên Chúa của con, xin tha thứ cho con
Gl
2,16, 19-21 Nhờ tin vào Đức Ki tô mà chúng
ta được cứu độ
Lc 7,36-8,3 Người phụ nữ tội lỗi được tha thứ
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: THIÊN CHÚA THA THỨ. Thiên Chúa đã bỏ qua lỗi lầm và tha
thứ cho Ða-vít (Bđ1); Chúa Giêsu đã tha thứ cho một người phụ nữ vì bà có lòng
tin và yêu thương đối với Chúa (BTM). Lời Thánh Phaolô sẽ giúp suy nghĩ đúng về
đời sống đạo đức (Bđ2).
2. HỎI: Sách
Sa-mu-ên là sách gì?
THƯA: Các
sách Sa-mu-ên thuộc loại sách Sử. Lúc đầu trong Kinh thánh bằng tiếng Híp-ri, Sa-mu-ên
chỉ là một quyển nhưng trong bản dịch tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia
ra làm hai. Từ đó, các bản dịch tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự
phân chia này. Sách Sa-mu-ên kể lại lịch sử Ít-ra-ên từ khi dân vào đất Canaan
đến thời lưu đày. Sách không ghi chép lịch sử theo cách hiện đại nhưng ngang
qua các biến cố nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Người. Thiên Chúa đã
chọn Ít-ra-ên làm dân riêng, đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký
kết giao ước với họ. Nếu trung thành với luật giao ước thì dân sẽ thịnh vượng
và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên
đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày nữa.
3. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Vua Đa-vít phạm tội ngoại
tình và âm mưu giết hại U-ri-ya viên tướng của mình, để cướp vợ của ông nầy là
bà Bết-sa-bê (x. 2Sm 11). Tội ấy đã làm mất lòng Thiên Chúa, nên Ngài sai tiên
tri Na-than đến để giúp ông ý thức tội mình đã phạm, sám hối và trở về với Ngài
(2 Sm 11).
4. HỎI: Vâng lệnh Thiên
Chúa, Na-than đã làm gì với vua Đa vít?
THƯA:
Trước hết tiên tri nhắc lại tình yêu Thiên Chúa dành cho
Đa-vít. Ngài ban cho ông không thiếu một ơn nào và còn muốn ban thêm nữa. Chính
Người đã chọn và thánh hiến Đa-vít làm vua Ít-ra-ên, cứu khỏi tay Sa-un, hứa
ban ngai vàng trường cửu, còn của cải, bạc vàng thê thiếp thì không đếm xuể. Và
nếu thế còn không đủ Ngài sẽ thêm những gì ông muốn. Kế đến, Na-than nhắc lại tội
mà Đa-vít đã phạm là giết U-ri-ya và cướp vợ y. Cuối cùng mới đưa ra phán quyết
của Thiên Chúa: ‘Lưỡi gươm sẽ không bao
giờ ngừng chém người nhà của ngươi’.
5. HỎI: Tiên tri Na-than đã
làm gì để giúp vua Đa-vít ý thức tội mình?
THƯA:
Thay vì đưa ra một giáo huấn luân lí, tiên tri Na-than đã khéo léo dùng câu truyện sau đây để
thức tỉnh vua Đa-vít. Có một người giàu sống gần một người nghèo khổ. Người
giàu có một đàn súc vật lớn, còn người nghèo cả gia tài chỉ có một chiên bé
nhỏ. Một hôm, ông nhà giàu có một người khách đến thăm, ông đã lấy trộm con
chiên của người nghèo làm tiệc đãi khách. Nghe đến đây, vua Đa-vít giận dữ và
đòi giết ông nhà giàu ấy. Nhưng Na-than lên tiếng thức tỉnh nhà vua: ‘Người ấy,
chính là Ngài’. Đa-vít hiểu ra rằng mình chính là người giàu có trong câu
chuyện của Nathan: quyền thế, giàu sang, thê thiếp người hầu không thiếu, nhưng
lại cướp vợ duy nhất của Uriya.
6. HỎI: Tội Đa vít như thế
nào?
THƯA: Vua Đa vít phạm hai tội
nặng: một là tội ngoại tình, lấy Bết-sa-bê vợ của Uriya. Đó là một lỗi nặng,
thậm chí là tội ác theo luật Ít-ra-ên (Đnl 22, 22). Hai là tội âm mưu giết hại
Uriya. Đó là tội ác giết người cũng bị lề luật lên án (Xh 21, 12).
7. HỎI: Thiên Chúa đã ban
ơn tha thứ như thế nào?
THƯA: Lời Thiên Chúa nói với
Đa-vít: ‘Và nếu còn không đủ, Ta sẽ thêm
những gì ngươi muốn’ diễn tả một cách tuyệt vời lòng thương xót tha thứ của
Người. Dù con người có tội, bất trung, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và
ban ơn. Ơn của Người không tùy thuộc vào cách sống của chúng ta mà theo lòng từ
ái vô biên của Người. Thiên Chúa tha thứ có nghĩa là ban ơn nhiều hơn tội lỗi
con người đã phạm.
8. HỎI: Bài đọc 2 (Gl 2, 16.19-21) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phao lô khẳng
định con người được nên công chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không
phải nhờ tuân giữ lề luật.
8.
HỎI: Bài Tin mừng (Lc 7, 36--8, 3) nằm trong ngữ cảnh nào?
THƯA: Toàn chương 7 Tin mừng Lu
ca gồm những lời chứng gửi đến cho Gioan Tẩy giả (7, 18-30). Qua hai phép lạ,
chữa lành đầy tớ viên quan và cứu sống con trai bà góa thành Na-in, Chúa Giê su
muốn cho dân hiểu rằng Ngài là đấng phải đến. Và qua lời tha tội cho người đàn
bà tội lỗi, Ngài tỏ cho thấy Ngài là vị Tiên tri phải đến trong thế gian. Có 2
phần: 1. Chúa Giê su, người Biệt phái và người phụ nữ tội lỗi (7, 36-50); 2. Các
phụ nữ theo Chúa Giê su (8, 1-3).
9.
HỎI: Chúa Giêsu dừng lại ăn trưa, ngay cả trong nhà những người Pha-ri-sêu là
những kẻ tố cáo Ngài hung hăng nhất?
THƯA: Vâng, Chúa Giêsu thường
xuyên là khách mời của người Pha-ri-sêu (x. Lc 11, 37; 14, 1). Ngài làm bạn với
những người thu thuế và tội lỗi, và thường xuyên tiếp xúc với những người
Pha-ri-sêu trong số đó, có nhiều đối thủ nổi tiếng của Ngài
10. HỎI:
Người Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà có phải nhằm mục tiêu tranh luận với
Ngài không?
THƯA: Không, theo bối cảnh thì không có điều đó. Chúa Giêsu
chấp nhận lời mời đến dự bữa tiệc có nghĩa là chấp nhận tham dự vào lễ hội hay
chia sẻ niềm vui với người thân và bạn bè (x. Mc 2, 15-16). Bầu khí bữa tiệc hôm
đó thực sự thân hữu, bình an và ấm cúng.
11. HỎI: Tại
sao Thánh Luca đã không cho chúng ta biết tên người phụ nữ tội lỗi?
THƯA: Chắc chắn vì tế nhị, hơn
nữa Lu ca không muốn độc giả chú ý đến điều phụ thuộc mà bỏ qua điều quan trọng
là những gì cô sắp thực hiện. Thuật ngữ ‘người phụ nữ tội lỗi’ là một chỉ dẫn
rất hiệu quả để giới thiệu một người phụ nữ nổi tiếng có nếp sống đạo đức buông
thả.
12. HỎI: Có
thể là người phụ nữ đã biết Chúa Giêsu hiện diện trong bữa tiệc nên cô đã thể
hiện một hành động ăn năn tội lỗi và yêu mến Ngài?
THƯA: Một điều chắc chắn là không những cô đã nghe Chúa
Giêsu giảng dạy mà còn nhìn thấy Ngài làm phép lạ và ban ơn tha thứ của Thiên
Chúa cho những người người tội lỗi đến với Ngài. Vì thế, khi ý thức về cuộc
sống không tốt đẹp của mình, cô đã biết chính xác những gì cần phải làm gì để
bày tỏ lòng ăn năn chân thành về tội lỗi quá khứ của mình.
13. HỎI:
Nhưng cô có hành động phù hợp không khi đi vào nhà của một người lạ?
THƯA: Người phụ nữ tội lỗi không
làm điều gì sai trái cả, bởi vì theo thói quen thời đó, trong những lễ hội và
tiệc tùng, ngay cả những người không được mời cũng có thể vào phòng để quan sát
những người hiện diện ở đó và cùng chia vui với họ.
14. HỎI: Tại
sao người phụ nữ đã rửa và lau khô chân Chúa Giêsu?
THƯA: Tất nhiên hành vi làm ướt
chân Chúa Giê su không phải là chủ ý. Cô đến gần Chúa Giêsu đau đớn ăn năn sám
hối tội lỗi mình. Vì không cầm được cảm xúc, cô đã khóc và làm ướt chân Chúa
Giêsu. Khi thấy mình đã làm phiền Chúa Giêsu, cô đã dùng mái tóc của mình lau
khô ngay.
15. HỎI:
Thái độ phản đối của những người Pha-ri-sêu có nghĩa gì?
THƯA: Khi chứng kiến những gì
Chúa Giêsu đã làm, người Do thái tin rằng Ngài có đặc sủng tiên tri, nghĩa là
có thể đọc được tâm hồn và báo trước những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Vì thế,
ở đây, người Pha-ri-sêu không đề cập đến sự thánh thiện của Chúa Giê su, nhưng
chỉ trích khả năng tiên tri của Chúa Giêsu.
16. HỎI:
Chúa Giêsu đã phản ứng lại những lời trách cứ của ông Simon Pha-ri-sêu như thế
nào?
THƯA: Dựa vào những sự kiện
trước mắt, Chúa Giêsu đã chứng minh cho ông ta thấy rằng Ngài thực sự là một vị
tiên tri, có thể thấu suốt những gì xảy ra trong tâm hồn của ông. Tuy nhiên lời
của Chúa Giêsu không trực tiếp nhằm mục đích bài bác ông, nhưng để biện minh
cho các hành động của người phụ nữ. Giọng nói của Ngài dịu dàng từ tốn, bởi vì
Ngài không nói vì tức giận bởi lời xét đoán sai lầm mà ông Simon dành cho Ngài.
17. HỎI: Tại
sao những người Pha-ri-sêu không thể vui lòng tiếp nhận cô gái điếm?
THƯA: Bởi vì bị đóng kín trong sự nhận thức cá nhân về nhân
đức và cách giữ luật hình thức của mình, nên người Pha-ri-sêu không thể tiếp
cận với người mà họ cho là ‘không còn là con người nữa’.
18. HỎI:
Chúa Giêsu hành đã động như thế nào?
THƯA: Chúa Giêsu đón tiếp bằng
một nụ cười thân ái, gặp gỡ cô ấy bằng một cái nhìn đầy thương xót và cuộc đối
thoại trở nên hiệu quả đến nổi có thể thay thế các nghi thức truyền thống thanh
tẩy tội lỗi.
19. HỎI: Đối
với những người Pha-ri-sêu, đâu là khoảng cách phải giữ đối với gái mại dâm?
THƯA: Phải giữ khoảng cách ít
nhất là hai mét.
20. HỎI:
Trong một thời đại mà người phụ nữ bị coi không ra gì trong đời sống xã hội thì
hành động của người phụ nữ có gây nên hậu quả nào không?
THƯA: Có, nhưng hành động của
Chúa Giêsu còn có hiệu quả hơn. Trong các trường hợp khác, Ngài còn liên kết
các phụ nữ trong sứ mệnh của mình, phá vỡ mọi điều cấm kỵ truyền thống.
21. HỎI:
Trong câu chuyện này, có điều gì khác biệt giữa người phụ nữ và người
Pha-ri-sêu?
THƯA: Người Pha-ri-sêu vì quá tự tin về lòng đạo và nhiệt thành của
mình nên tưởng rằng họ có ít tội nên không cần xin tha thứ. Còn người phụ nữ
cho thấy có một tâm hồn hoàn toàn rộng mở cho ân sủng, có thể tự hiến hoàn toàn
cho Thiên Chúa, cho phép tình yêu biến một trái tim sắt đá thành một trái tim
biết yêu thương.
22. HỎI: Thực thi sứ điệp Lời Chúa
THƯA: Thực thi sứ điệp của Lời
Chúa hôm nay. Thứ nhất là đón nhận Tình Yêu thứ tha của Thiên Chúa và của
Chúa Giê-su với lòng cảm tạ tri ân. Thứ hai là củng cố lòng tin và tăng
cường tình yêu đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô. Càng được tha nhiều thì
càng tin vững mạnh và càng mến yêu nhiều. Càng tin vững mạnh và càng mến yêu
nhiều thì lại càng được tha thứ nhiều.
GLCG 1441. Chỉ một mình Thiên Chúa
mới có quyền tha tội. Bởi vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nên Người nói về
mình: ‘Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội’ (Mc 2, 10), và Người thực
thi quyền thần linh này: ‘Con đã được tha tội rồi’ (Mc 2, 5). Hơn nữa, dựa vào
quyền bính thần linh của mình, Đức Kitô còn ban quyền đó cho những con người để
họ thực thi quyền tha tội nhân danh Người. (X. Ăn năn tội 1450-1454.
Đền tội 1459-1460. Hiệu năng Bí tích Giao hòa 1468-1470. Hình phạt do tội 1472-1473).