Suy Niệm Lời Chúa Thứ Bảy
Tuần XVI Thường Niên
Mầu nhiệm Nước
Trời
và chuyện người kia gieo giống tốt
Lời Chúa: Mt 13, 24-30
24Đức Giê-su trình bày cho dân chúng
nghe một dụ ngôn khác: "Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt
trong ruộng mình. 25Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến
gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26Khi lúa mọc lên và trổ
bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện.
27Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng:
"Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì
cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? " Ông đáp: "Kẻ thù đã làm đó!" Đầy tớ
nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không? "
29 Ông đáp: "Đừng, sợ rằng khi gom
cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30 Cứ để cả hai
cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng
lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi."
Suy Niệm:
Trước
khi lắng nghe các dụ ngôn, chúng ta nên hình dung ra cung cách giảng dạy rất
gần gũi của Đức Giê-su. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa và Ngài đến để nói Lời Thiên
Chúa cho chúng ta, nhưng, như thánh sử Mát-thêu tường thuật, Ngài ra khỏi nhà
và đến ngồi ở ven Biển Hồ; rồi người ta đến với Ngài rất đông. Đứng ở bờ hồ và
có rất đông người đến với mình, thì sẽ có nguy cơ bị xô đẩy té xuống hồ. Chính
vì thế, Ngài phải xuống thuyền mà ngồi (13, 1-2).
Chúng
ta hay nghĩ Đức Giê-su ngự trên ngai hay trên tòa; nhưng ở đây, Ngài hiện diện
thật là bình dị và thật là gần gũi giữa chúng ta. Và Đức Giê-su thích hiện diện
ở giữa chúng ta như thế đó: ngay trong môi trường sống của chúng ta, ngay trong
cuộc sống bình thường của chúng ta, ngay trong giáo xứ của chúng ta, ngay gia
đình của chúng ta, ngay ở giữa những vấn đề cuộc sống của chúng ta, và thậm
chí, ngay trong lòng của chúng ta, qua Lời của Ngài và bí tích Thánh Thể, được
ban cho chúng ta hằng ngày.
1. Ngôn ngữ dụ ngôn
Ngoài
ra, Đức Giê-su còn trở nên gần gũi với chúng ta trong lời giảng dạy nữa, bởi vì
Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy; và chúng ta nên biết rằng, nói về Thiên Chúa
bằng dụ ngôn là cách thức giảng dạy đặc trưng nhất của Đức Giêsu, bởi vì theo
các tác giả Tin Mừng: “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13,
34; Mc 4, 34). Và như chúng ta đều đã biết, những dụ ngôn Đức Giêsu kể luôn là
một câu chuyện đến từ kinh nghiệm cuộc sống; chẳng hạn dụ ngôn muời cô mang đèn
đi đón chàng rể, dụ ngôn những yến bạc, dụ ngôn chiên và dê, dụ ngôn người cha
nhân hậu, dụ ngôn nắm men, dụ ngôn hạt cải, và nhất là dụ ngôn Hạt Giống và
Người Gieo Giống. Dụ ngôn là những câu chuyện đến từ kinh nghiệm đời thường,
nhưng khi được Đức Giê-su kể, lại nói cho chúng ta những điều kín ẩn: kín ẩn về
Thiên Chúa, kín ẩn về con người, kín ẩn về mối tương quan giữa Thiên Chúa và
con người và giữa con người với nhau, kín ẩn về chương trình cứu độ của Thiên
Chúa, kín ẩn về Nước Trời, như thánh sử Mát-thêu tường thuật trong bài Tin Mừng:
Mở
miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn,
công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa. (c.
35)
Hơn
nữa, dụ ngôn còn có một đặc điểm tuyệt vời nữa là có nhiều nghĩa, giống như một
bức tranh; và vì thế, dụ ngôn rất tôn trọng ngôi vị và tự do của người nghe,
như chính Đức Giê-su hay kết thúc dụ ngôn bằng câu nói: “Ai có tai thì nghe”.
Người
nghe có thể tự do chú ý đến bất cứ chi tiết nào, hay tự do đặt mình vào bất cứ
nhân vật nào trong dụ ngôn, và tự mìmh khám phá ra ý nghĩa tùy theo kinh nghiệm
sống, vấn đề và tâm trạng hiện có của mình. Đức Giê-su thích dùng dụ ngôn là vì
vậy, Ngài tôn trọng ngôi vị và tự do của chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở
trong tình trạng nào.
2. Dụ ngôn Người Gieo
Giống và các dụ ngôn khác
Dụ
ngôn Người Gieo Giống (13, 1-23) là dụ ngôn đầu tiên, vì thế là dụ ngôn của mọi
dụ ngôn, là “dụ ngôn mẹ”. Thực vậy, dụ ngôn này mặc khải cho chúng ta “những
điều được giữ kín từ thủa tạo thiên lập địa” (c. 35), đó là mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên
Chúa trong Sáng Tạo, mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa trong Lịch Sử, ngang qua
những mảnh đất khác nhau và những hình ảnh nói về tội và Sự Dữ, về mầu nhiệm
Nhập Thể và về mầu nhiệm Vượt Qua. Do đó, các Tin Mừng kể về dụ ngôn này dài
nhất: dụ ngôn Người Gieo Giống (c. 1-9); ngôn ngữ dụ ngôn (c. 10-17); giải
thích dụ ngôn Người Gieo Giống (c. 18-23). Và vì tầm mức quan trọng của dụ ngôn
Người Gieo Giống, nên Đức Giê-su đã trách các môn đệ, khi họ xin Người giải
thích: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu các dụ ngôn khác” (Mc
4, 13).
Sau
dụ ngôn Người Gieo Giống, Đức Giê-su kể thêm một loạt sáu dụ ngôn. Tùy theo nội
dung, các dụ ngôn này có thể được sắp xếp như sau:
(A)
Dụ ngôn cỏ lùng (c. 24-30)
(B)
|
Dụ
ngôn hạt cải và nắm men (c. 31-33)
|
Du
ngôn kho tàng và ngọc quí (c. 44-46)
|
(A’)
Dụ ngôn mẻ lưới (c. 47-50)
Theo
sự phân chia của lịch phụng vụ, dụ ngôn Người Gieo Giống và những dụ ngôn này
được công bố hơn một tuần, từ thứ tư tuần này, tuần XVI thường niên, đến thứ
năm tuần sau, tuần XVII thường niên (đó cũng là các bài Tin Mừng của các Chúa
Nhật XV, XVI và XVII, phụng vụ năm A).
Như
thế, khi nói về Nước Trời, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn: dụ ngôn Người
Gieo Giống, dụ ngôn Cỏ Lùng, dụ ngôn Hạt Cải, dụ ngôn Nắm Men, dụ ngôn Kho
Tàng, dụ ngôn Viên Ngọc và dụ ngôn Mẻ Lưới. Như thế, một dụ ngôn không thể diễn
tả hết được mầu nhiệm Nước Trời ; và để hiểu và sống mầu nhiệm Nước Trời,
chúng ta cần lắng nghe nhiều dụ ngôn ; vì mỗi dụ ngôn nói cho chúng ta một
khía cạnh về mầu nhiệm Nước Trời.
Ø (1)
Dụ ngôn cỏ lùng và mẻ lưới nói về thời điểm tận cùng chắc chắn sẽ xẩy ra và về
hành động của chính Thiên Chúa tách biệt ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự
chết, điều tốt và điều xấu, những người công chính và những người gian ác.
Ø (2)
Dụ ngôn hạt cải và nắm men nói về sự lớn mạnh và viên mãn tất yếu của Nước Trời,
do dù điểm khởi đầu rất nhỏ bé, giới hạn và khiêm tốn.
Ø (3)
Hai dụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí khá giống nhau, vì đều nói đến thời gian
sống hôm nay và đến hành động của con người, hành động này là sự lựa chọn dứt
khoát, triệt để và trong niềm vui hướng về điều rất cao quí mình hằng ao ước và
tìm kiếm.
Các
dụ ngôn này soi sáng cho nhau, bởi vì nếu nhóm dụ ngôn thứ nhất chất vấn chúng
ta và làm cho chúng ta sợ hãi, thì nhóm dụ ngôn thứ hai và thứ ba mang lại cho
chúng ta niềm hi vọng và chỉ ra cho chúng ta con đường vượt qua sự sợ hãi, đó
là lòng khao khát và tìm kiếm «Điều Cao Quí». Và «Điều Cao
Quí», chính là Đức Ki-tô, là lựa chọn và dấn thân trọn vẹn, triệt để và
dứt khoát để có được «Điều Cao Quí», như kinh nghiệm của chính
thánh Phao-lô :
Những gì xưa kia tôi cho
là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất
cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô
Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để
được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người. (Phil
3, 7-8)
Còn
một điều khác, rất thú vị, chúng ta cũng cần để ý, đó là, để giúp chúng ta hiểu
Nước Trời, ngang qua các dụ ngôn, Đức
Giê-su khởi đi từ những điều rất đời thường ở dưới đất, đó là hạt giống, cây lúa, cọng cỏ, đánh bắt cá, kho tàng, viên
ngọc.
Do
đó, chúng ta được mời gọi «bắt chước» Đức Giê-su, và nhất là dưới ánh sáng đến
từ ngôi vị của Ngài, từ lời nói và hành động của Ngài và nhất là từ mầu nhiệm
Vượt Qua, chúng ta được mời gọi nhìn, nghe và sống những thực tại đời thường
trong thiên nhiên và trong đời sống của chúng ta, như là những «dụ ngôn» nói về
Nước Thiên Chúa và nói về chính Thiên Chúa.
3. Dụ ngôn cỏ lùng và
chiếc lưới (c. 34-30 và 47-50)
Thế
giới chúng ta đang sống giống như cánh đồng lúa, trong đó có lúa, những cũng có
cỏ, cỏ ở khắp nơi; hay giống như cá ở dưới biển: có đủ thứ cá, cá tốt và
cá xấu. Các dụ ngôn, khi được hiểu dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, sẽ
củng cố niềm hi vọng mỏng dòn của chúng ta.
Với
dụ ngôn thứ nhất về cỏ lùng, chúng ta cần ghi nhận rằng, chính kẻ thù đã gieo
điều xấu. Điều này có nghĩa là, điều xấu không đến từ chúng ta, nhưng đến từ
bên ngoài, từ Con Rắn (x. St 3, 1-7). Sự thật này phải giải phóng chúng ta khỏi
mặc cảm tội lỗi chết chóc, và cởi bỏ khỏi lòng chúng ta trách nhiệm hoàn toàn
đối với sự dữ và tội lỗi. Sự dữ đến từ bên ngoài và mạnh hơn chúng ta ; vì
thế, chúng ta là nạn nhân cần được thương cảm hơn là bị lên án. Nhưng nếu Sự Dữ
mạnh hơn chúng ta, thì Thiên Chúa mạnh hơn Sự Dữ. Lịch sử cứu độ, mà điểm tới
là Mầu nhiệm Vượt Qua, nói cho chúng ta chân lí này.
Dụ
ngôn này nói cho chúng ta biết rằng cây lúa, nghĩa là sự thiện, vẫn được bảo vệ
và gìn giữ cho đến cùng, nghĩa là cho đến mùa gặt. Vì thế, chúng ta không cần
phải đối đầu với sự dữ để chống chọi với sức của chúng ta, bởi vì Đức Giê-su
mời gọi chúng ta « Đừng chống lại kẻ dữ» (Mt 5, 39); trong cuộc Thương Khó,
Đức Giê-su đã sống lời này của Ngài, và sống cho đến cùng. Hơn nữa, chúng ta
đâu có chống lại được Sự Dữ (x. St 3, 1-7); và thực tế cho thấy, chúng ta hay
dùng phương tiện của Sự Dữ để chống lại Sự Dữ. Nhưng chúng ta được mời gọi nhận
ra và làm cho sinh hoa kết quả «phần đất tốt» vốn có nơi chúng ta, nhận ra «hạt
giống» tốt lành đã được gieo, và vẫn được gieo cách quảng đại mỗi ngày. Bởi vì,
chúng ta được dựng nên bởi Ngôi Lời (x. St 1 và Ga 1, 3), theo hình ảnh của
Ngôi Lời và cho Ngôi Lời. Và chính Sự Thiện và những gì thuộc về Sự Thiện có
sức mạnh lấn át Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ, tương tự như ánh sáng phá tan
bóng tối một cách tự nhiên và tất yếu.
Theo
hai dụ ngôn này, sự phân loại sau cùng là điều tất yếu, vì sẽ đến lúc ánh sáng,
sự sống và sự thiện sẽ phải tách rời tuyệt đối khỏi bóng tối, sự chết và sự dữ;
đó là lúc chúng ta phải trở về với Chúa hay vào ngày tận thế, và thời điểm này
có thể làm cho chúng ta sợ hãi, bởi vì chúng ta hay tự xếp loại mình. Chúng ta
hãy để cho Chúa «xếp loại» chúng ta: chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa, được sinh ra và được tái sinh làm con Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Vì thế,
trong Ngài, không còn bị lên án nữa (x. Rm 8, 1): chúng ta là giống tốt sinh ra
lúa tốt, chúng ta là «cá tốt» chứ không phải cá xấu, là chiên chứ không phải là
dê (x. Mt 25, 31-46). Chúa mời gọi chúng ta nhận ra, ước ao và nỗ lực sống mỗi
ngày căn tính của chúng ta, ngang qua sự mỏng dòn và những thăng trầm của cuộc
sống.
Chắc
chắn, chúng ta sẽ là những «người công chính» (c. 43) vào thởi điểm tận cùng
của cuộc sống và của thời gian, vào thởi điểm mà chỉ còn một mình Thiên Chúa
mới có thể hành động mà thôi. Chúng ta là những người công chính không phải là
do nỗ lực của chúng ta, vì chúng ta không thể tự tạo cho mình đức công chính
của Nước Trời xuất phát từ con tim (x. Mt 7, 17-48), nhưng là đức công chính
đích thực mà Đức Ki-tô chết và phục sinh ban cho chúng ta, như thánh Phao-lô nói:
Những ai Thiên Chúa đã
tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng
làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người
cũng cho hưởng phúc vinh quang (Rm 8, 30)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc