THỨ HAI TUẦN I THƯỜNG NIÊN
THEO THẦY THI HÀNH SỨ VỤ
LỜI CHÚA:
Mc 1,14-20
14 Sau khi ông Gioan bị nộp,
Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15 Người nói: “Thời kỳ đã
mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
16 Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người
anh là ông Anrê, đang quăng lưới xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. 17 Người bảo các ông: “Các
anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như
lưới cá”. 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người”.
19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Dêbêđê, và
người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người liền gọi các ông.
Và các ông bỏ cha là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà
đi theo Người.
SUY NIỆM
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Matcô hôm nay nói
về ngày Chúa Giêsu khởi sự sứ vụ loan báo Tin Mừng. Sau 30 năm sống âm thầm nơi
làng quê Nadarét, đúng lúc “thiên thời địa lợi”, Đức Giêsu rời xa gia đình ra
đi tung gieo hạt giống Nước Trời.
Kinh Thánh cho biết, sau khi chuẩn bị chu đáo
cho Chúa một con đường thẳng tắp, một mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, ông Gioan đã
lui vào bóng tối âm thầm để ánh sáng Giêsu chiếu tỏa cho hạt giống nứt mộng nảy
một mầm sống. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được loan báo qua lời ngôn sứ
Isaia “Này đất Dơvulun, và đất Náptali,
hỡi con đường ven biển và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của
dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy
hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi” (Mt 4,15-16).
Dưới thời Chúa Giêsu, đất nước Do Thái bị cai
trị bởi đế quốc Rôma, người dân phải sống kiếp nô lệ nên họ mất hết tự do. Hàng
năm họ phải nộp cho Roma thuế nhà đất, thuế lợi tức, thậm chí thuế thân và
nhiều loại thuế gián thu khác. Riêng người Do Thái hằng năm còn phải nộp thuế
Đền Thờ và thuế thập phân. Về chính trị, Do Thái còn duy trì chế độ quân chủ nô
lệ. Các nô lệ không có quyền gì về pháp lý và họ bị mua bán như một món hàng.
Từ thời Cựu Ước, dân Do Thái đã phải sống trong
cảnh lưu đày suốt 40 năm trường ở Babylon, trước mắt họ là con đường dài thăm
thẳm tối tăm. Vì thế họ hằng ấp ủ trong lòng khát vọng sớm được giải thoát,
được trở về đoàn tụ nơi quê cha đất tổ. Đức Giêsu đã đến như một vị vua của dân
tộc, mở cho dân một con đường sống tự do thênh thang. Người đã đến hoàn trọn
lời các ngôn sứ loan báo. Từ đây ánh sáng cứu độ đã bừng lên xua tan bóng tối
sự chết, cất đi cái ách nô lệ nặng nề tủi nhục.
Đức Giêsu chọn Galilê - miền Bắc Do Thái là miền
đất của dân ngoại như một trung tâm truyền giáo, vì nơi đây vai trò tôn giáo rất
quan trọng, nơi có thành Caphacnaum, hơn nữa Đức Giêsu đã lớn lên ở Nadarét
cũng là vùng đất thuộc Galilê. Có thể nói Đức Giêsu đã quen thuộc địa lý, xã
hội chính trị và tôn giáo tại Galilê. Bên cạnh đó, người dân vùng Galilê sống
cởi mở, dễ dàng đón nhận những luồng tư tưởng mới nên rất thuận lợi cho việc
truyền giáo. Điều đáng nói ở đây, Đức Giêsu giảng dạy có uy quyền và thuyết
phục hơn các kinh sư và thầy dạy khác bởi vì Người có những việc làm kèm theo.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đến gần qua các dấu
hiệu và qua việc làm cụ thể, đó là ma quỷ bị xua trừ, mọi người đau bệnh tật
nguyền được chữa lành. Một viễn cảnh thái bình an vui đang mở ra trước mắt mọi
người. Dân chúng từ miền Galilê, vùng Thập Tỉnh, thành Giêrusalem, miền Giuđê
và vùng bên kia sông Giođan lũ lượt kéo đến đi theo Đức Giêsu. Ai nấy lắng nghe
một cách chăm chú và sửng sốt bởi chưa bao giờ họ được nghe những điều huấn
giáo mới mẻ và thuyết phục như vậy. Để cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước
Trời, Đức Giêsu đã chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên, đó là ông Simon, Anrê, Giacôbê
và Gioan. Nghe Đức Giêsu gọi, các ông đã mau mắn bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Đức Giêsu đã có một khởi đầu mới “thuận buồm
xuôi gió”. Người đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã trao
phó. Kế hoạch đó không gì khác ngoài việc yêu thương và giải thoát loài người
khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết, đem đến cho họ niềm vui, sự an bình và
nguồn hạnh phúc đích thực. Để có được hạnh phúc lớn lao ấy đòi hỏi mọi người
phải sám hối. Như vậy sám hối chính là thái độ cần phải có để nhận lãnh hồng ân
cứu độ. Sám hối chính là nhìn nhận những yếu đuối của mình để biết sống tin
tưởng vào tình thương và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Qua phép Thanh tẩy, Giáo hội trao cho mỗi người
chúng ta sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng nhiều những
phương cách khác nhau tùy theo bậc sống của mỗi người. Cách trước hết, đó là thiết
lập mối tương giao thân tình gần gũi với Đức Giêsu,
để Người điều khiển, hướng dẫn toàn bộ đời sống. Hơn 2000 năm qua, Giáo hội đã
lãnh nhận và tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, thế nhưng đâu
đó trên thế giới vẫn còn “đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” chưa nhìn thấy
ánh sáng cứu độ, vẫn còn những vùng đất “Galilê” chưa đón nhận hạt giống đức
tin. Ý thức được sự khẩn thiết này, ước gì mỗi Kitô hữu biết quảng đại dấn thân
trong việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt canh tân đời sống đạo trong gia đình,
trong giáo xứ để Lời Chúa được vang xa, lan rộng đến tận cùng thế giới.
Biết bao lần trong cuộc sống, Chúa cũng lên tiếng gọi
chúng ta. Lời Người gọi có lúc âm thầm sâu lắng qua những phút giây tâm hồn thư
thái bình an, có lúc khẩn thiết gắt gao qua những đòi hỏi trở nên chứng nhân
Tin Mừng. Lời mời gọi có lúc nỉ non tha thiết qua những công việc nhỏ bé hàng
ngày, cũng có lúc quyết liệt qua những gian nan thử thách. Đáp lại tiếng gọi của
Chúa, có lúc tâm hồn chúng ta hân hoan dâng lời tạ ơn chúc tụng vì những ân huệ
Chúa ban, cũng có lúc con tim ta se thắt vì những nghịch cảnh, hờn trách Chúa
vì ước mộng dở dang. Có những lúc tâm tư ta hoang mang trống rỗng không biết đi
đâu về đâu giữa trăm ngàn ngã rẽ, ta phải đấu tranh chọn lựa giữa ước muốn bước
theo Chúa mà cũng muốn ngả theo sự níu kéo của trần gian.
Trên bước đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng,
chúng ta sẽ không tránh khỏi những cám dỗ, những khó khăn vất vả, nhưng Thiên Chúa
vẫn luôn đồng hành và lắng nghe chúng ta. Người vẫn hiện diện để che chở và quảng
đại tha thứ. Chúa vẫn gọi chúng ta từng giây từng phút, hãy đến hưởng hạnh phúc
Nước Trời, hãy trở thành cánh tay của Chúa nối dài những yêu thương, tìm kiếm
những mất mát, đong đầy những khát vọng. Hãy ra đi đánh thức những trái tim ngục
tù đang bị giam hãm bởi đam mê tội tỗi. Hãy thắp lên nụ cười trên môi trẻ thơ,
xua tan nỗi ưu phiền trên ánh mắt người mẹ hầu làm cho thế giới thấm đẫm niềm
vui Tin Mừng.
Chúa vẫn gọi chúng ta qua những biến động của thời
cuộc với những cuộc khủng bố, bất công xã hội và nhân phẩm con người bị chà đạp.
Chúa vẫn gọi chúng ta đến để băng bó vết thương cho nhân loại, xoa dịu những đớn
đau mà loài người đang gánh chịu. Ước gì niềm vui của Chúa Giêsu tình thương luôn
lan tỏa đầy ắp trong tâm hồn chúng ta và lan tỏa trong đời sống.
Nt. M. Anh Thư, OP