CHỦ
NHẬT 5 PHỤC SINH

Cơ
cấu Giáo Hội có tầm quan trọng nhất định, nhưng điều chính yếu vẫn là Tình yêu
mà Chúa Giê su chuyển thông cho Giáo Hội. Nếu có thể chuyển thông Tình yêu ấy
ngang qua các kênh nhân loại là chúng ta thì Giáo Hội sẽ trở thành thực tại sống
động. Tuy nhiên, chúng ta phải chấp nhận bị xén tỉa, vì còn nhiều điều trong
chúng ta làm cản trở lưu thông cho dòng suối Tình yêu ấy.
Sách Cv 9,26-31:
Trở
lại với Ki tô giáo, thoạt đầu Thánh Phao lô đã trở thành đối tượng nghi ngờ cho
các ki tô hữu trước kia đã biết ngài là người bách hại ki tô giáo. Nhưng chính
đức tin được đổi mới đầy năng động đã phá đổ bức tường nghi ngờ ấy. Nhờ vậy,
Thánh Phao lô đã sớm khẳng định mình như là một trong những nhà truyền giáo nhiệt
thành nhất.
Thánh vịnh 21:
Các
câu trích dẫn ở đây là những câu kết thúc Thánh vịnh 21 mô tả lời kinh của người
đang lâm cảnh khốn cùng cầu cúu với Thiên Chúa. Những lời ấy được Chúa Giê su
thốt lên trên Thánh Giá: “Lạy Thiên Chúa con, tại sao Người bỏ con?”. Tiếng kêu
tuyệt vọng chuyển thành niềm xác tín lạc quan. Cuộc sống được tái sinh.
Thư 1Ga 3,18-24:
Là
những kẻ tội lỗi, chúng ta có thể rơi vào cảnh tuyệt vọng khốn cùng. Nhưng nếu
chúng ta thực sự nhìn lên Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận được xác tín rằng chúng
ta được Người yêu thương. Nhờ vậy, đến lượt chúng ta, chúng ta có thể YÊU
THƯƠNG người khác không phải bằng lời, nhưng bằng hành vi và chân lí.
Tin mừng: Ga 15,1-8
NGỮ CẢNH
Đọan
Tin mừng nầy nằm trong bài diễn từ dài khởi từ 13,31 đến 17,26, sau trình thuật
rửa chân, khi Giu đa bỏ phòng tiệc ra đi và trước trình thuật Thương khó. Các
tác giả thường gọi là diễn từ Tiệc li, thuộc thể văn đặc biệt thường
thấy trong Thánh Kinh (Stk 49; Đnl 31; Gs 23; 1Sm 12; 1V2,1-9; Cv 20.18-35..).
Tuy nhiên bài diễn từ của Chúa Giê su chứa đựng nhiều suy tư độc đáo về mối
tương giao với Chúa Cha cũng như với các môn đệ, về ý nghĩa sứ mạng và cuộc Khổ
nạn của Ngài..
Đọan
văn của chúng ta thuộc phần đầu của chương 15 gồm có ví dụ về cây nho, qua đó
Chúa Giê su nhấn mạnh đến sự lưu chuyển đầy sức sống giữa cây và cành nho, là
điều kiện để sinh hoa trái. Sự liên kết giữa Ngài và các môn đệ cũng phải như
thế.
TÌM HIỂU
Thầy
là: Chúa Giê su tự đồng hoá với một loài cây lưu chuyển nhựa nuôi sống cành cây
và cho hoa trái. Nhựa đây chỉ sự sống của Ngài, tình yêu mà Ngài lãnh nhận từ
nơi Cha và thông ban lại cho các môn đệ. Thân và cành làm thành một cây nho duy
nhất, một thực thể duy nhất; thánh Phao lô sau nầy cũng có một suy tư tương tự:
Đức Ki tô là thân còn các ki tô hữu là chi thể, đồng thời vừa là thủ lãnh và
toàn thân (1Cr 12,14-27; Ep 4,15-16).
Cây
nho thật: Chúa Giê su là đấng được so sánh với cây nho, cũng như Ngài là bánh
thật (6,32).
Thanh
sạch rồi: cách dịch khác: tỉa sạch rồi. Từ nầy trong hi ngữ theo ngữ cảnh có lẽ
nên được dịch là: “được sạch vì đã được cắt tỉa”; “đã sạch nhờ đã được thanh
luyện” nghĩa là “bởi Lời” hoặc bởi hành động của Thiên Chúa (c.2). Hành động nầy
của Thiên Chúa nơi người tín hữu giống như hành động của người trồng nho tỉa cắt
những cành khô và mầm chồi vô ích khỏi cây nho.
Lời:
được lãnh nhận và chăm sóc, lời Thiên Chúa xây dựng đức tin, làm thay đổi cách
suy nghĩ, hối thúc thay đổi cuộc sống. Như lưỡi kiếm (Ep 6,7; Dt 4,12), Lời Thiên Chúa thanh tẩy
tâm hồn bằng ý hướng tốt, trong khi lên án (phân tách) người từ chối. So sánh để
thấy cách ứng xử khác biệt của ông Phê rô và Giu đa trong việc rửa chân trước một
lời mời gọi duy nhất.
Vào
lửa: các c. 5-6 nhấn mạnh đến sự khắc khe trong những đòi hỏi của Thiên Chúa.
Lúa lép thì bị quăng vào lò lửa (Mt 13,30.40-41), người được mời mà không mặc
áo cưới bị ném ra ngoài (Mt 22,13). Không ai để một cành khô héo trên cây,
nhưng ném nó vào lửa. Đó há chẳng phải là một qui chiếu đến hoả ngục, vì bị
tách khỏi tình yêu của Thiên Chúa sao? Dù sao đi nữa thì đây là một lời cảnh
cáo nghiêm khắc, một lời mạnh mẽ của Chúa Giê su mời gọi hãy trổ sinh hoa trái,
đặc biệt hơn hết là trong tình yêu thương nhau (15,12).
Nếu
anh em ở lại trong Thầy: ở đây chúng ta thấy điểm cốt yếu của sứ điệp. Lời mời
gọi trung thành luôn luôn được nhấn mạnh và gởi đến cá nhân từng người. Tình
yêu của Cha đối với Con, tình yêu của các tín hữu đối với Đức Ki tô và tình yêu
của Con đối với Cha tất cả là một tình yêu độc nhất (15,9-11).
Anh
em sẽ được như ý: lời cầu nguyện đã được chấp nhận bởi lẽ nó phát xuất từ những
kẻ ở lại trong Đức Ki tô. So sánh với 14,13.
Điều
Chúa Cha được tôn vinh là: các môn đệ sẽ làm cho “Nước Thiên Chúa” phát triển nếu
họ luôn luôn liên kết sâu xa với Con là đấng đã mạc khải cho họ tình yêu và
chương trình của Cha. Các môn đệ sẽ trở nên xứng đáng với danh hiệu của mình nếu
biết làm trổ sinh hoa trái, điều mà Đức Ki tô đã dạy họ, nghĩa là sống Tin mừng.
SỨ ĐIỆP
Nếu
quen thuộc với thế giới Kinh Thánh, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy nhiều
bản văn Cụu Ước và Tân ước nói về Vườn nho. Nho là một trong những sản phẩm
chính của nền kinh tế Israel và của cả vùng Trung Đông thời đó. Nhưng điều quan
trọng hơn, vườn nho là hình ảnh thích hợp để diễn tả Giao Ước giữa Thiên Chúa
và dân Ngài.
Với
trang Tin mừng nầy, chúng ta đang ở trung tâm đức tin, trong đó Chúa Giê su cho
biết Ngài không chỉ là một người hướng đạo, một người bạn, mà còn là sự sống của
chúng ta. Ngài đang sống trong chúng ta. Ngài làm cho chúng ta sống bằng chính
sự sống thần linh của Ngài. Ngài nói với chúng ta rằng Ngài là « cây nho
thật » nhưng không đứng một mình, vì Ngài là gốc nho tràn đầy sức sống,
nơi đó Ngài muốn tháp vào tất cả những ai sống bằng chính sự sống của
Ngài; « Ta là cây nho và anh em là nhành nho ». Là người Ki tô hữu,
chúng ta được tháp ghép vào Ngài qua đức tin và phép Rửa. Và điều mà Thiên Chúa
chờ đợi nơi chúng ta, là chúng ta phải là những cành nho tràn đầy nhựa sống và
hoa trái.
Tất
cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta thực sự liên kết với Đức
Ki tô; có một từ được lặp lại bẩy lần trong một vài hàng, đó là động từ « ở
lại ». Chúa Giê su nói với chúng ta: « Hãy ở lại trong Thầy ! ».
Rõ ràng người ki tô là những người ở lại trong Đức Ki tô, nhưng câu hỏi đặt ra
là làm thế nào để có thể ở lại trong Chúa Giê su? Làm sao chúng ta có thể chắc
rằng chúng ta gặp Ngài ? Điều đó không thể xảy ra như đối với người láng
giềng, vì chúng ta không gặp Chúa Giê su trực tiếp nhưng qua các trung gian, và
phải qua ba con đường: Con đường Lời Thiên Chúa, con đường cầu nguyện và các bí
tích, và con đường đời sống thường ngày.
Con
đường Lời Thiên Chúa: Để ở lại trong Đức Ki tô, chúng ta phải ở lại trong Lời của
Ngài. Chúng ta phải dành thời giờ để tiếp nhận Ngài. Thiên Chúa nói với chúng
ta qua bất cứ biến cố nào trong đời sống, nhưng đặc biệt nhất là qua Phụng vụ
và Kinh Thánh. Do đó, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta có dành thời giờ để đón nhận
Lời ấy không?
Con
đường thứ hai để ở với Đức Ki tô, đó là con đường cầu nguyện và các bí tích. Để
ở với Ngài, phải nói với Ngài và lắng nghe Ngài. Đó là lời cầu nguyện trung
thành, đều đặn và thường xuyên, chứ không chỉ là « một lời kinh ngắn ».
Người ta nói chuyện với Chúa Giê su để giao phó một ai đó cho Ngài, hoặc để cám
ơn hoặc để xin Ngài soi sáng đời sống chúng ta. Nói chuyện với nhau cũng có
nghĩa là gìn giữ. Cầu nguyện giúp chúng ta nuôi dưỡng tinh thần tin mừng trong
cuộc đời chúng ta, đặc biệt là tình yêu thương nhau để có thể hiệp thông với Đức
Ki tô. Sự hiệp thông nầy cũng được thực hiện qua các bí tích, đặc biệt bí tích
Thánh Thể. Đó là nguồn cội và đỉnh cao của toàn đời sống Ki tô và việc phúc âm
hóa. Nó giúp chúng ta được kết hợp với Đức Ki tô, làm một với Ngài, và kín múc
từ nơi đó tình yêu của Ngài để chan hòa trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Con
đường thứ ba là cuộc sống hằng ngày: ở lại trong Đức Ki tô không có nghĩa là trốn
chạy hay xa rời đời sống hằng ngày, nhưng phải bám rễ và sinh hoa trái. Điều
làm nên giá trị của một cuộc sống, không phải là những lời nói hay đẹp mà là
tình yêu tthương nhau, cử chỉ chia sẻ, tiếp nhận và liên đới với nhau.
Khi
khỏe mạnh giống như cành nho xanh tốt, chúng ta làm việc đạt năng suất cao, có
cảm nhận như mình được gắn liền với sự sống của Chúa, không những bằng những hoạt
động khác nhau mà còn bằng lời cầu nguyện, qua việc dâng các hoạt động của chúng
ta. Bấy giờ chúng ta có cảm giác là những người đầy tớ tốt lành của Thiên Chúa
và người khác. Chúng ta có cảm giảm sống tốt với Thiên Chúa, với người khác và
với chính mình. Chúng ta không còn đòi gì hơn nữa.
Nhưng
khi chúng ta yếu mệt, tựa như những cành nho khô héo, chúng ta cảm thấy mình sa
sút, dễ có cảm nhận mình trở nên vô ích, không làm được gì, thậm chí còn gây cản
trở. Đó là lúc mà chúng ta cần phải đào sâu sứ điệp Tin mừng. Chúa Giê su không
đòi chúng ta phải làm những gì vượt quá sức mình, nhưng “hãy nên phong phú,
sinh hoa trái; chính đó là điều tôn vinh Thiên Chúa Cha”. Điều Ngài đòi hỏi đó
là gắn bó với Ngài trong mọi tình huống đời sống. Bấy giờ, cuộc sống chúng ta sẽ
sinh hoa trái và Thiên Chúa sẽ hãnh diện vì chúng ta. Nhờ vậy mà chúng ta tìm
được ý nghĩa cho đời sống.
ĐÀO SÂU
1.
HỎI: Ngữ cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA:
Chúng ta bắt đầu một phân đoạn mới trong sách Công vụ: từ trước tới đây thánh
Luca kể các biến cố đầu đời Giáo Hội sơ khai xảy ra sau Hiện xuống chung quanh
các nhân vật chính là các ông Phê rô và Gioan. Từ đây, các ông sẽ nhường sân khấu
cho người thanh niên tên là Saun.
2.
HỎI: Saun là ai?
THƯA:
Saun là người giữ áo khi người ta ném đá Tê pha nô. Một thời gian sau đó, ông
trở về Giê ru sa lem, hoán cải, chịu phép rửa. Không ai quên được người thanh
niên nầy. Ông từng là người thủ địch số một của các Kitô hữu, hăng hái bắt bớ
người ki tô hữu, thậm chí xin Vị Thượng tế cho phép đi Đa mát để bắt bớ người
Ki tô hữu.
3.
HỎI: Ai là trung gian bảo đảm cho Phao lô tại Giê ru sa lem?
THƯA:
Ông Barnabê. Ông tên thật là Giô sép, một thầy lê vi gốc đảo Ky prô, người có
thế giá trong cộng đoàn Ki tô hữu vì mang tên đệm là Barnabê nghĩa là ‘người an
ủi’. Ông không có mặt trên đường đi Đa mát với Phao lô, nhưng khi Phao lô lên
Giê ru sa lem vài năm sau đó, ông tin Phao lô và chấp nhận biện hộ cho ông.
4.
HỎI: Thánh Lu ca muốn nói gì khi viết: ‘Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa’
(9,28)?
THƯA:
Thánh Lu ca hai lần khẳng định Phao lô mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa Giê
su. Từ nay, ông dấn thân phục vụ đức tin ki tô giáo với lòng hăng say như trước
kia ông đã tìm cách chống phá và tiêu diệt. Nhờ ơn trên mà bổng nhiên mắt ông
được mở ra và tất cả trở nên sáng sủa.
5.
HỎI: Người Do thái đã phản ứng như thế nào?
THƯA:
Ở Đa mát, sau khi Phao lô trở lại, tình thế trở nên căng thẳng hơn vì người Do
thái phẫn nộ tìm cách giết ông. Thậm chí họ canh phòng cửa thành suốt ngày đêm
để ngăn chận ông thể trốn thoát. Cuối cùng các môn đệ của ông phải lấy một cái
giỏ để thả ông xuống tường thành để giải thoát ông.
6.
HỎI: Còn ở Giê ru sa lem?
THƯA:
Ở Giê ru sa lem còn khó khăn hơn. Phao lô vừa phải tìm cách để người Ki tô hữu
tiếp nhận ông, những người vẫn còn ngờ vực ông vì quá khứ bách hại họ, vừa phải
đương đầu với những người do thái khác tìm cách trừ khử ông vì đối với họ, ông
là một kẻ phản bội Do thái giáo khi gia nhập Ki tô giáo.
7.
HỎI: Sự kiện ấy có ngăn cản Hội Thánh lớn mạnh không?
THƯA:
Không. Như lời chứng của thánh Luca: ‘Hồi ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê
và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm
kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ’ (9,31).
8.
HỎI: ‘Niềm kính sợ Chúa’ có nghĩa gì?
THƯA:
Kính sợ Chúa là một kiểu nói quen thuộc trong Cựu Ước, không thuộc lãnh vực cảm
giác sợ hãi, khiến tay chân bị tê cứng không cử động được. Kính sợ có nghĩa là
một thái độ của người biết mình bé nhỏ nhưng được Thiên Chúa yêu thương và che
chở. Niềm kính sợ giúp các tín hữu Ki tô sống an bình giữa bao sóng gió khiến
người đương thời phải ngạc nhiên.
9.
HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng như thế nào?
THƯA:
Đọan Tin mừng nằm trong bài diễn từ Tiệc li bắt đầu từ 13,31 đến 17,26, sau
trình thuật rửa chân, khi Giu đa bỏ phòng tiệc ra đi và trước trình thuật
Thương khó. Nội dung bài diễn từ của Chúa Giê su chứa đựng nhiều suy tư độc đáo
về mối tương giao với Chúa Cha cũng như với các môn đệ, về ý nghĩa sứ mạng và
cuộc Khổ nạn của Ngài..
10.
HỎI: Đại ý bài tin mừng?
THƯA:
Đọan
tin mừng nằm trong phần đầu chương 15 gồm có ví dụ về cây nho, qua đó Chúa Giê
su nhấn mạnh đến sự lưu chuyển đầy sức sống giữa cây và cành nho, là điều kiện
để sinh hoa trái. Sự liên kết giữa Ngài và các môn đệ cũng phải như thế.
11.
HỎI: Cựu Ước dùng hình ảnh vườn nho để nói đến điều gì?
THƯA:
Nho là sản phẩm quen thuộc và gần gủi với dân Israên nên Cựu Ước dùng hình ảnh
vườn nho để nói đến Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa lả chủ vườn
nho hằng quan tâm chăm sóc vườn nho là Israên.
12.
HỎI: Các ngôn sứ đã tiên báo như thế nào về vườn nho ấy?
THƯA:
Các ngôn sứ thường so sánh Israên với vườn nho mà Thiên Chúa đã chọn lựa và
chăm sóc với hi vọng là nó sẽ mang lại hoa quả tốt tươi, nhiều tôi tớ trung tín
và ngoan ngoãn (Is 5,1). Nhưng Ít ra ên đã làm cho Thiên Chúa thất vọng: “Ta chờ
đợi một một mùa thu hoạch tốt, nhưng nó chỉ cho nho dại”. Vì thế nó bị bỏ hoang và trở nên sa mạc.
Isaia cắt nghĩa: “Vườn nho chính là dân Israel thay vì làm theo ý muốn của
Thiên Chúa lại xúc phạm đến lề luật công chính và tình yêu của Ngài”.
13.
HỎI: Như thế, theo tiên tri thì Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài đã ra như
thế nào?
THƯA:
Lời ấy cho thấy biết Giao ước đã không còn hiện hữu, nội dung Giao Ước không
còn giá trị, vì trong khi Thiên Chúa vẫn trung tín yêu thương Dân Ngài, thì họ
lại bất trung, bội phản, bỏ Ngài và chạy theo bục thần.
14.
HỎI: Tại sao thế?
THƯA:
Vì các lãnh đạo Do thái giáo đã đưa dân đến chỗ lầm lạc. Tiên tri Giê rê mia đã
vạch trần lỗi lầm của họ: “Vườn nho của Ta, nhiều kẻ chăn chiên đến phá hoại,
thửa đất của Ta chúng giày xéo. Thửa đất yêu quý của Ta, chúng biến thành sa mạc
cằn cỗi, chúng biến thành nơi cằn cỗi hoang vu” (Gr 12,10).
15.
HỎI: Và Thiên Chúa đã phản ứng ra sao?
THƯA:
Thiên Chúa là chủ vườn nho không đành nhìn vườn nho của mình bị tan nát, nên
Ngài đã loan báo một tương lai tươi sáng của vườn nho: “Ngày ấy, các ngươi hãy
ca ngợi vườn nho tuyệt diệu. Chính ta, Đức Chúa, Ta là người canh giữ vườn nho,
vẫn đều đặn tưới nước. Ta cảnh giữ ngày đêm, không cho ai phá hoại” (Is
27,2-6). Qua đó, Ngài loan báo Giao ước mới.
16.
HỎI: Khi nói: “Ta là cây nho đích thật”, Chúa Giê su muốn nói điều gì?
THƯA:
Israên chỉ là vườn nho không cho trái tốt, có nhiều tôi tớ phản phúc, nhiều người
thờ ngẫu tượng. Vì thế, Israên chỉ là vườn nho bất toàn và tạm bợ, khiến người
ta phải chờ đợi cây nho đích thực. Chúa Giê su không chỉ là vườn nho của Thiên
Chúa mà là chính Cây nho thần linh, không bao giờ tàn tạ và suy yếu đi, vì có sức
sống thần linh. Như thế Chúa Giê su có quyền ban sự sống thần linh cho tất cả mọi
người để biến họ trở thành con cái hoàn hảo của Thiên Chúa (17,1-2). Ngang qua
Ngài, lời hứa ban Giao Ước mới đã thành sự thực.
17.
HỎI: Chúa Giê su tự đồng hóa với cây nho, Ngài muốn nói gì?
THƯA:
Chúa Giê su tự đồng hoá với một loài cây lưu chuyển nhựa nuôi sống cành cây và
cho hoa trái. Nhựa đây chỉ sự sống của Ngài, tình yêu mà Ngài lãnh nhận từ nơi
Cha và thông ban lại cho các môn đệ. Thân và cành làm thành một cây nho duy nhất,
một thực thể duy nhất
18.
HỎI: Chúa Giê su nói với ai?
THƯA:
Chúa Giê su muốn nói đến các nhà lãnh đạo Israên, các thầy tư tế và các kì mục
đã không đáp lại một cách đúng đắn ơn gọi và sứ mạng mà Thiên Chúa đã giao phó.
Họ đã được trao cho sứ mạng quản lí vườn nho của Ngài. Nhưng họ đã làm cho Ngài
thất vọng, vì không mang lại cho Ngài một hoa quả nào như Ngài mong đợi.
19.
HỎI: Chúa Giê su muốn nhấn mạnh điều gì khi nói: “Cha Thầy là người trồng nho”?
THƯA:
Thiên Chúa Cha là người trồng nho khi Ngài qui tụ người Israên thành dân riêng
của Ngài. Ngài quan tâm đến họ như người trồng nho chăm sóc vườn nho của mình.
Nhưng vì Israên không đáp ứng ước mong của Ngài, nên Ngài phải thay thế bằng
cây nho đích thực là Đức Ki tô, Con Một Ngài. Ngài là người trồng nho khi sai
Con Ngài đến trần gian, cắt tỉa qua cuộc khổ nạn và sự chết, đổ tràn nơi Chúa
Giê su sự sống và năng lực tác sinh nhờ sự sống lại. Và hiện giờ, Thiên Chúa
Cha vẫn là người trồng nho: như là chủ vườn đích thực, Ngài mong muốn thu hoạch
mùa trái dồi dào từ cây nho của Ngài. Ngài còn phải cắt tỉa để cho cây nho được
dồi dào sức sống hơn.
20.
HỎI: ‘Lời’ Thiên Chúa hành động như thế nào?
THƯA:
Lời Thiên Chúa có sức mạnh giúp xây dựng đức tin, làm thay đổi cách suy nghĩ, hối
thúc thay đổi cuộc sống. Như lưỡi kiếm
(Ep 6,7; Dt 4,12), Lời Thiên Chúa thanh tẩy tâm hồn bằng ý hướng tốt,
trong khi lên án người từ chối.
21.
HỎI: Cành có cần thiết cho cây nho
không?
THƯA:
Bây giờ Chúa Giê su nói đến vai trò của các môn đệ trong chương trình cứu rỗi.
Cây nho dù tốt đến mấy cũng sẽ không có trái nếu không có cành mang trái. Cũng
thế, Đức Ki tô cũng thực sự cần con người để tiếp tục hiện diện và hoạt động
cách hữu hình trong thế gian.
22.
HỎI: “Anh em là cành” có nghĩa gì?
THƯA:
Dù cành luôn cần thiết cho cây, nhưng người tín hữu cũng chỉ là khí cụ trong
bàn tay Thiên Chúa mà thôi. Vì để sinh hoa trái, người tín hữu nhất thiết cần đến
sức sống thần linh từ Đức Ki tô. Điều nầy đòi cành phải liền cây, nghĩa là phải
có một sự hiệp thông mật thiết và thường xuyên giữa Đức Ki tô và người tín hữu.
Vì thế Chúa Giê su đã truyền dạy: “Hãy ở lại trong Ta và Ta trong các ngươi”.
23.
HỎI: Chúng ta tìm thấy lời chứng về sự kết hiệp nầy ở đâu?
THƯA:
Nơi Thánh Phao lô. Thật vậy, Thánh Phao lô luôn tự xưng là tôi tớ và thừa tác
viên của Đức Ki tô, không ngừng nhận lãnh từ nơi Thầy sự sống thần linh: “Tôi sống,
nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Ki tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
24.
HỎI: Và kinh nghiệm sinh hoa trái dồi dào?
THƯA:
Chúa Giê su đã cho biết qui luật phát sinh hoa trái: “Ai ở trong ta và ta ở
trong nó, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”; “Ngoài ta, các ngươi chẳng làm được
chi”. Về điều ấy, thánh Phao lô cũng là chứng nhân: “Hiện tôi có là gì, thì đều
bởi ơn Thiên Chúa và ơn Ngài xuống cho tôi đã không ra hư luống, trái lại, tôi
đã tận lực lao công hơn họ hết thảy. Nhưng chẵng phải tôi đâu, nhưng là ơn
Thiên Chúa với tôi” (1Cr 15,10).
25.
HỎI: Làm sao để sống mối tương quan mật thiết với Đức Ki tô?
THƯA: Chúa Giê-su muốn thiết lập với mỗi Ki-tô hữu
một mối tương quan cá vị, mật thiết, có tính sinh tử. Vì thế mỗi người chúng ta
phải biết vun quén, xây đắp mối tương quan bằng nhiều cách: Một là siêng năng
“đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện”. Hai là tham dự các cử hành phụng vụ và
bí tích một cách ý thức. Ba là thực thi công bằng, bác ái nhất là với người ngh èo và bị thiệt thòi
trong xã hội.
26.
HỎI: Làm sao để sinh hoa trái dồi dào như ý Chúa Giê su?
THƯA:
Người môn đệ sinh nhiều hoa trái bằng cách: một là có đời sống đạo đức, thánh
thiện, khiêm nhu, trong sạch, công bình, bác ái và phục vụ; hai là tuân giữ các
giới răn của Người, là sống mật thiết với Người và để Người sai đi (x. Mc 3,14)
tức nên giống Chúa Giê-su và tham dự vào sứ mạng cứu thế của Người.