Thứ hai sau
lễ Hiển Linh
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến
gần”
(Mt 4, 12-17. 23-25)
1. Tin Mừng
Nước Trời (c. 12-17)
Trong mầu nhiệm Hiển Linh, có một nghịch lí thuộc
về nghịch lý Tin Mừng, vì loan báo nghịch lý của mọi nghịch lý, đó là nghịch lý
Mầu Nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Hài Nhi Giê-su sắp được sinh ra bị từ
chối trong các quán trọ, do đó, phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn, như “một em
bé, bọc tã nằm trong máng cỏ”, đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành, một hoàn cảnh
tưởng như là bất hạnh, nhưng lại được “Hiển Linh”, được tôn vinh đối với muôn
dân nước, qua hình ảnh của các nhà đạo sĩ.
Và nếu chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của Đức
Giê-su, chúng ta sẽ nhận ra rằng nghịch lí Tin Mừng này sẽ được ghi khắc ở khắp
nơi và làm nên nền tảng hay sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cuộc đời của Chúa, đến
tận mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Chúa phải đi lánh nạn, phải tránh
né sự bách hại bạo lực và bất công, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng
ta: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp…”, thì lại là lúc lời ngôn sứ
Isaia được ứng nghiệm, nghĩa là lời Kinh Thánh, là chương trình cứu độ của
Thiên Chúa, được hoàn thành một cách lạ lùng và viên mãn :
« Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã
thấy một ánh sáng huy hoàng ».
« Và những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối
của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. »
« Ánh sáng huy hoàng, bừng lên chiếu
rọi » tương ứng với sự hiện diện của của Đức Giê-su công bố Nước Trời và
là hiện thân của Nước Trời. Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại :
Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói
rằng: « Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. »
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực
hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ tất
cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất
cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời. Nhưng đàng khác,
Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no
thỏa những khát vọng thâm sâu và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng
ta dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước
của Thiên Chúa.
2. Tin Mừng
Nước Trời và ơn kêu gọi (c. 18-22)
Và đâu là nội dung của Tin Mừng Nước Trời? Đó là
ơn gọi nhưng không (c. 18-22: phần này được Giáo Hội cho đọc vào ngày lễ Thánh
An-rê Tông Đồ, 30/11), là Lời Chúa được lan truyền và là sứ mạng phục vụ cho sự
sống (c. 23-25). Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới
mẻ: ơn gọi của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng
Nước Trời, của “Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách
đặc biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo Hội
cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong năm nay, là dấu chỉ sống động của
Nước Trời.
Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần,
mỗi lần hai anh em (c. 18-20; 21-22). Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên có ba đặc
điểm. Ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
a. Chính Đức
Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống, đang là…
“Người đang đi… thì thấy…”
“Đi một quảng nữa, Người thấy…”
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo Chúa trong
một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ nhận ra rằng,
chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện diện trong hoàn
cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang loay hoay “với lưới với
thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính Người gõ cửa lòng chúng ta và mời
gọi: “Hãy theo Thầy”.
b. Sự nhưng
không của tiếng gọi
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra tính nhưng
không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và Anrê, hai anh em
Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những
bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới với thuyền cùng với những người
thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không
cần chuẩn bị “lâu dài” các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng
không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi người chúng
ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào và đã trải
qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa tự bản chất là nhưng
không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi
nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con?
Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao
Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?...
Chúng ta hãy làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là
động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
c. Sức mạnh
của tiếng gọi
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm sức
mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến độ làm bật tung
« lập tức » (c. 20 và 22) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi các ông
đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống các
ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông. Chúng ta còn chậm
chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được
tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và xin đích thân nghe được tiếng Chúa
gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và
suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng
ta, sẽ lôi kéo và biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta.
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa gọi và
chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức Giê-su mời
gọi : « Các anh hãy đi theo tôi », và « lập tức các ông bỏ
chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của mọi ơn
gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi các môn đệ đầu
tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện
trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa
chọn. Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải
được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi
ngang qua đời ta mỗi ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay
làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao
dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung
và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và
sống ơn gọi dâng hiến.
3. Tin Mừng
Nước Trời và sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25)
Và cùng với Tin Mừng Nước Trời là dấu chỉ phục hồi
sự sống: chữa bệnh và nhất là trừ quỉ.
Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ
thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã
chữa họ.
(c. 24)
Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép
lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại
thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được:
sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi
ma quỉ, bởi thần dữ mới là bi đát hơn, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con
người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực,
ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự
dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Và chỉ có Lời Chúa,
và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát
chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.
* * *
Cuối cùng, chính khi Chúa bị từ chối, phải đi lánh
nạn: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền
Ga-li-lê” (c. 12), thì như bài Tin Mừng kể lại: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập
Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng
lũ lượt kéo đến đi theo Người. dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người (c. 25).
Hình ảnh thật ấn tượng và thật đẹp, vì loan báo cho
chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua: chính khi Chúa chịu đóng đinh, là lúc Chúa biểu lộ
căn tính thần linh và tình yêu thương xót rạng ngời nhất cho loài người chúng
ta. Và ơn chữa lành khỏi sự chết, khỏi sự sợ hãi sự chết[1]
đến từ sức mạnh và khôn ngoan của Thập Giá.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc