Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha: “Amoris laetitia”
VATICAN.
Tông Huấn mới của ĐTC Phanxicô đã được công bố trong cuộc họp báo sáng
8-4-2016, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM cũng
cho phổ biến một bản tóm lược văn kiện dài 268 trang này, như dưới đây:
Tông
Huấn hậu Thượng HĐGM mang tựa đề ”Amoris laetitia” (Niềm vui Yêu thương”) mang
chữ ký ngày 19-3, lễ trọng kính Thánh Giuse, một ngày không phải là tình cờ.
Văn kiện này đúc kết thành quả của hai Thượng HĐGM về gia đình do ĐTC Phanxicô
triệu tập trong năm 2014 và 2015, những bản tường trình đúc kết của hai công
nghị này được trích dẫn nhiều, cùng với các văn kiện và giáo huấn của các vị
Giáo Hoàng tiền nhiệm, và nhiều bài giáo lý của chính ĐGH Phanxicô về gia đình.
Nhưng như đã xảy ra với các văn kiện khác của Huấn Quyền, ĐGH cũng dùng những
đóng góp của các HĐGM trên thế giới (như Kenya, Australia, Argentina..) và những
trích dẫn của các nhân vật quan trọng như Martin Luther King, hoặc Erich Fromm.
Đặc biệt
một trích dẫn từ cuốn phim “Bữa ăn của Babette” mà ĐGH còn nhớ để
giải thích ý niệm nhưng không.
Tiền
đề
Tông
huấn gây ấn tượng vì chiều dài và sự phân chia, gồm 9 chương với 325 đoạn. Văn
kiện mở đầu với 7 đoạn dẫn nhập nêu bật sự ý thức về đề tài phức tạp, đòi phải
đào sâu. Văn kiện khẳng định rằng những phát biểu của các nghị phụ tại Thượng
HĐGM là một khối quí giá (AL 4) cần được bảo tồn. Theo chiều hướng đó, ĐGH
viết “Không phải tất cả những tranh luận đạo lý, luân lý hoặc
mục vụ đều phải được giải quyết với sự can thiệp của huấn quyền”. Vì thế đối với một
số vấn đề, “tại mỗi nước hoặc miền có thể tìm kiếm những giải pháp
hợp với văn hóa hơn, chú ý đến những truyền thống và những thách đố địa
phương. Thực vậy, “các nền văn hóa rất khác nhau và mỗi nguyên tắc chung
(...) cần được hội nhập vào văn hóa địa phương, nếu muốn được tuân giữ và áp dụng”
(AL 3). Nguyên tắc hội nhập văn hóa này thực là quan trọng cả trong cách thức đặt
và hiểu các vấn đề, vượt lên trên những vấn đề tín lý đã được Huấn Quyền của
Giáo Hội định tín, đến độ không thể ”hoàn cầu hóa chúng”.
Nhưng
nhất là ĐGH khẳng định ngay và rõ ràng rằng cần ra khỏi sự đối nghịch vô bổ giữa
một bên là lo lắng vì thay đổi và bên kia là sự áp dụng đơn thuần các qui luật trừu tượng.
Ngài viết: “Các cuộc thảo luận nơi các cơ quan truyền thông hoặc
trong các sách báo và thậm chí giữa các thừa tác viên của Giáo Hội đi từ một ước
muốn vô độ thay đổi mọi sự mà không có suy tư đầy đủ hoặc nền tảng, tới thái độ
chủ trương giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các quy luật tổng quát hoặc rút
ra những kết luận thái quá từ một số suy tư thần học” (AL 2).
* Chương I: “Dưới
ánh sáng Lời Chúa”
Sau
khi đặt những tiền đề trên đây, ĐGH trình bày suy tư của ngài từ Kinh Thánh với
chương đầu tiên, được khai triển như một suy tư về Thánh Vịnh 128, có đặc tính
phụng vụ hôn lễ Do thái cũng như của Kitô giáo. Kinh Thánh “nói
đến những gia đình, các thế hệ, các chuyện yêu thương và khủng hoảng gia đình'
(Al 8), và từ dữ kiện ấy người ta có thể suy tư gia đình không phải như một lý tưởng trừu tượng,
nhưng như “một nghĩa vụ 'thủ công' (AL 16) được diễn tả một cách
dịu dàng (AL 28) nhưng ta cũng gặp thấy tội lỗi ngay từ đầu, khi tương quan
tình thương biến thành sự thống trị (Xc AL 19). Khi ấy Lời Chúa “không
tỏ ra là một hệ luận của những luận đề trừu tượng, nhưng như một người bạn đồng
hành đối với các gia đình đang gặp khủng hoảng hoặc trải qua đau khổ nào đó, và
chỉ cho họ mục tiêu của hành trình” (AL 22).
* Chương II: “Những
thực tại và các thách đố của gia đình”
Từ
lãnh vực Kinh Thánh, tiến qua chương II, ĐGH cứu xét tình trạng hiện nay của
các gia đình, chân đạp đất (AL 6), kín múc rộng rãi từ các bản tường trình
chung kết của hai Thượng HĐGM và đương đầu với nhiều thách đố, từ hiện tượng di
dân cho đến ý thức hệ phủ nhận sự khác biệt phái tính, gọi là lý thuyết gender;
từ nền văn hóa tạm bợ cho đến não trạng bài trừ sinh sản và ảnh hưởng của các kỹ
thuật sinh học trong lãnh vực truyền sinh; từ tình trạng thiếu nhà ở và công ăn
việc làm cho đến nạn dâm ô và lạm dụng trẻ em; từ sự chú ý đến những người khuyết
tật, đến sự tôn trọng người già; từ sự phá hủy gia đình bằng luật pháp, cho đến
nạn bạo hành phụ nữ. ĐGH nhấn mạnh sự cụ thể, là một con số cơ bản của Tông Huấn.
Và chính sự cụ thể và thực tiễn tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa” những
lý thuyết”
giải thích thực tại và các “ý thức hệ”.
Trích
dẫn Tông Huấn Familiaris consortio, ĐGH Phanxicô khẳng định rằng “một
điều lành mạnh là để ý đến thực tại cụ thể, vì ”những yêu cầu và tiếng gọi của
Chúa Thánh Linh cũng vang dội cả trong những biến cố lịch sử”, qua đó, ”Giáo Hội
có thể được hướng dẫn để hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm khôn lường hôn nhân
và gia đình” (AL 31). Nếu không lắng nghe thực tại thì không thể hiểu những đòi
hỏi của hiện tại cũng như những tiếng gọi của Thánh Linh. ĐGH nhận xét rằng cá
nhân chủ nghĩa thái quá làm cho con người ngày nay khó hiến thân cho tha nhân một
cách quảng đại (XC AL 33). Đây là hình chụp thật đúng về tình trạng: “Người
ta sợ cô đơn, muốn một không gian được bảo vệ và chung thủy, nhưng đồng thời
người ta cũng gia tăng lo sợ bị kẹt trong một tương quan, khiến cho sự thỏa mãn
những khát vọng cá nhân của họ bị đình trệ” (AL 34).
Sự
khiêm tốn của óc thực tế giúp ta không trình bày” một lý tưởng thần học
quá trừu tượng về hôn nhân, như thể hôn nhân được kiến tạo một cách giả tạo, xa
rời tình trạng cụ thể và những khả thể thực sự của các gia đình như trong thực
tế” (AL 36). Thái độ duy lý tưởng làm ta không cứu xét hôn nhân như thực chất của
nó, nghĩa là ”một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. Vì thế cũng
chẳng cần tin rằng các gia đình chỉ được nâng đỡ
“bằng cách nhấn mạnh đến các vấn đề đạo lý, đạo đức
sinh học và luân lý, không cổ võ họ cởi mở đối với ơn thánh” (AL 37). Khi mời gọi
tất cả hãy tự phê bình về lối trình bày không thích hợp về thực tại hôn nhân và
gia đình, ĐGH nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: “Chúng
ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm”
(AL 37). Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng “ngài
không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người
phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL 38)
*
Chương III: Cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: ơn gọi của gia đình”
Chương
III được dành cho một số yếu tố nòng cốt trong giáo huấn của Giáo Hội về hôn
nhân và gia đình. Sự hiện diện của chương này thật là quan trọng vì trình bày một
cách cô đọng trong 30 đoạn ơn gọi của gia đình theo Tin Mừng, như đã được Giáo
Hội quan niệm trong thời gian, nhất là về đề tài bất khả phân ly, tính chất bí
tích của hôn phối, sự truyền sinh và giáo dục con cái. Hiến chế Gaudium et Spes
Vui Mừng và Hy Vọng, của Công đồng chung Vatican 2, thông điệp Humanae vitae, Sự
sống con người của Đức Phaolô 6, Tông huấn Familiaris consortio về gia đình của
Đức Gioan Phaolô 2 được trưng dẫn nhiều trong chương này.
Cái
nhìn
bao quát, và cũng bao gồm cả “những tình trạng bất toàn”. Thực vậy chúng
ta đọc thấy: “Phân định về sự hiện diện những mầm mống của Lời”
trong các nền văn hóa khác (Xc Ad Gentes, 11) có thể được áp dụng cho cả những
thực tại hôn nhân và gia đình. Ngoài hôn nhân tự nhiên đích thực còn có những yếu
tố tích cực trong những hình thức hôn phối thuộc các truyền thống tôn giáo
khác, tuy không thiếu những bóng đen” (AL 77). Suy tư cũng bao gồm các “gia
đình bị thương tổn”. Đứng trước những gia đình này, ĐTC trích dẫn bản tường
trình chung kết Thượng HĐGM năm 2015, nói rằng “Cần luôn luôn nhắc nhớ một nguyên tắc
tổng quát: “Các vị mục tử hãy biết rằng, vì lòng yêu mến sự thật,
mình có nghĩa vụ phải phân định kỹ lưỡng các hoàn cảnh' (Familiaris consortio,
84). Cấp độ trách nhiệm không đồng đều trong mọi trường hợp, và có thể có những
yếu tố hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi cần trình bày đạo lý một
cách rõ ràng, cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của các hoàn
cảnh, và cần chú ý đến cách thức con người đang sống và đau khổ vì tình trạng của
họ” (AL 79)
* Chương IV: “Tình
yêu trong hôn nhân”
Chương
IV bàn về tình yêu trong hôn nhân và trình bày nó từ bài ca tình yêu của thánh
Phaolô trong thư thứ I gửi tín hữu Corinto, đoạn 13, 4-7. Chương này là một bài
chú giải thực sự quan tâm, chính xác, được gợi hứng và có đặc tính thơ phú về
đoạn thư của thánh Phaolô. Chúng ta có thể nói đây là một sưu tập những mảnh
trong diễn văn bình thường, quan tâm mô tả tình yêu của con người trong những hạn
từ tuyệt đối cụ thể. Ta có ấn tượng mạnh vì khả năng cứu xét tâm lý nội tâm
trong bài chú giải này. Sự sâu xa về tâm lý đi vào thế giới cảm xúc của các đôi
vợ chồng - tích cực hoặc tiêu cực - và trong chiều kích lạc thú của tình yêu.
Đây là một đóng góp hết sức phong phú và quí giá đối với đời sống của đôi vợ chồng
theo tinh thần Kitô, cho đến nay ít có được trong các văn kiện trước đây của
các vị Giáo Hoàng.
Theo
thể thức của mình, chương này là một tiểu luận trong một khảo luận rộng lớn
hơn, đầy ý thức sự đặc tính thường nhật của tình yêu là kẻ thù của mọi thái độ duy lý tưởng.
ĐGH viết: “Ta không được ném trên hai người vốn có những giới hạn,
gánh nặng kinh khủng về nghĩa vụ họ phải diễn tả một cách hoàn hảo sự kết hiệp
giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, vì hôn nhân như dấu chỉ bao hàm một” tiến
trình năng động, từ từ tiến bước với sự hội nhập tiệm tiến các hồng ân của
Thiên Chúa” (AL 122). Nhưng đàng khác, ĐGH nhấn mạnh đặc biệt và quyết liệt về
sự kiện “trong chính bản chất của tình yêu vợ chồng có sự cởi mở đối với sự
chung cục” (AL 123), chính trong sự liên kết vui mừng và cơ cực, căng thẳng và
nghỉ ngơi, đau khổ và giải thoát, thỏa mãn và tìm kiếm, khó chịu và khoái lạc”
(AL 126) mà có hôn nhân.
Chương
này kết luận với
một suy tư rất quan trọng về “sự biến đổi của tình yêu” vì ”sự kéo
dài cuộc sống làm cho xảy ra điều không có trong các thời đại khác: tương quan
thân mật và sự thuộc về nhau phải được bảo tồn trong 4, 5 hoặc 60 năm, và điều
này bao hàm sự cần thiết phải tái chọn lựa nhau nhiều lần” (AL 163). Khía cạnh
thể lý thay đổi và sự thu hút của tình yêu không giảm sút nhưng thay đổi: ước
muốn tình dục với thời gian có thể biến thành ước muốn thân mật và “đồng lõa”. “Chúng
ta không thể hứa với nhau có cùng những tâm tình suốt đời. Nhưng chắc chắn
chúng ta có thể có một dự án chung bền vững, dấn thân yêu nhau và sống kết hiệp
cho đến khi sự chết tách rời chúng ta, và luôn sống một sự thân mật phong phú”
(AL 163)
*
Chương V: “Tình yêu trở nên phong phú”
Chương
này qui trọng tâm vào sự phong phú và sinh sản con cái trong tình yêu. Chương
bàn theo thể thức linh đạo và tâm lý sâu xa về việc đón nhận một sự sống mới, về
sự chờ đợi thai nghén, tình yêu của người mẹ và người cha. Nhưng cũng nói về sự
phong phú nới rộng, nhận con nuôi, đón nhận sự đóng góp của các gia đình để
thăng tiến ”một nền văn hóa gặp gỡ”, nền văn hóa sự sống trong gia đình theo
nghĩa rộng, với sự hiện diện của các chú bác, cô dì, anh em họ, thân nhân họ
hàng, bạn hữu. Tông huấn ”Niềm Vui Yêu Thương” không cứu xét gia đình chỉ có 1
người cha hoặc 1 người mẹ, vì ý thức rõ về gia đình như một mạng các quan hệ rộng
rãi. Chính đặc tính thần bí của bí tích hôn phối có một đặc tính xã hội sâu xa
(Xc AL 186). Và bên trong chiều kích xã hội ấy ĐGH đặc biệt nhấn mạnh vai trò đặc
thù của tương quan giữa người trẻ và người già, cũng như tương quan giữa anh chị
em như một sự thực tập để tăng trưởng trong quan hệ với tha nhân.
*
Chương VI: Một số viễn tượng mục vụ
Trong
chương VI ĐGH đề cập đến một số con đường mục vụ hướng dẫn việc xây dựng gia
đình vững chắc và phong phú theo kế hoạch của Thiên Chúa, trong phần này, Tông
Huấn tham chiếu rộng gãi các tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và các
bài huấn giáo của ĐGH Phanxicô và Gioan Phaolô 2. Ngài tái khẳng định rằng gia
đình là chủ thể chứ không phải chỉ là đối tượng cần được rao giảng Tin Mừng. ĐGH
nêu rõ rằng “Các thừa tác viên thánh chức thường thiếu sự huấn luyện
thích hợp để đối phó với những vấn đề phức tạp hiện nay của các gia đình” (AL
202). Một đàng cần phải cải tiến việc huấn luyện tâm lý tình cảm cho các chủng
sinh và để gia đình họ can dự nhiều hơn vào việc huấn luyện về thừa tác vụ (Xc AL
203). đàng khác, “một điều cũng có thể hữu ích là kinh nghiệm về truyền
thống lâu dài của Đông Phương về các LM có gia đình” (AL 202).
Rồi
ĐGH đề cập đến vấn đề hướng dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị
kết hôn, tháp tùng các đôi vợ chồng trong những năm đầu trong đời sống hôn nhận
(kể cả đề tài sinh sản trách nhiệm), nhưng cả một số hoàn cảnh phức tạp, và đặc
biệt là trong các cuộc khủng hoảng, với ý thức rằng “mỗi cuộc khủng hoảng
che đậy một tin mừng cần biết lắng nghe, cải tiến thính giác của trái tim” (AL
232). Phần này phân tích một số nguyên nhân gây ra khủng hoảng, trong đó có sự
trưởng thành chậm về tình cảm (Xc AL 239).
Ngoài
ra, chương này cũng nói về sự tháp tùng những người bị bỏ rơi, ly thân hoặc ly
dị, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tổ mới đây về các thủ tục nhìn nhận
hôn phối vô hiệu. ĐGH nhấn mạnh sự đau khổ của các con cái trong những tình trạng
xung
đột và kết luận rằng: “Ly dị là một điều bất hạnh, và con số các vụ ly dị gia
tăng là điều rất đáng lo âu. Vì thế, chắc chắn nghĩa vụ mục vụ quan trọng nhất
của chúng ta đối với các gia đình là củng cố tình yêu và giúp chữa lành các vết
thương, làm sao để chúng ta có thể phòng ngừa sự lan tràn thảm trạng này trong
thời đại chúng ta” (AL 246).
Tiếp
đến ĐTC bàn đến những tình trạng hôn phối hỗn hợp và hôn phối khác đạo, tình trạng
các gia đình có các con cái có xu hướng đồng tính luyến ái, ngài tái khẳng định
sự tôn trọng đối với họ và phủ nhận mọi thứ kỳ thị bất công và mọi hình thức
gây hấn hoặc bạo hành. Về phương diện mục vụ, điều quí giá là phần chót của
chương này: ”khi tử thần đưa nọc độc của nó vào”, về đề tài mất những người yêu
thương và tình trạng góa bụa.
*
Chương VII: Củng cố việc giáo dục con cái
Chương
7 hoàn toàn dành cho việc giáo dục con cái: việc giáo dục con cái về luân lý,
giá trị của hình phạt như một kích thích, sự thực tế kiên nhẫn, giáo dục về
tính dục, thông truyền đức tin, và tổng quát hơn là đời sống gia đình như một bối
cảnh giáo dục. Thật là hay sự khôn ngoan thực tiễn được diễn tả trong mỗi đoạn,
nhất là quan tâm đến tính chất tiệm tiến và những bước tiến nhỏ “có
thể được hiểu, chấp nhận và đánh giá cao” (AL 271).
Có
một đoạn đặc biệt ý nghĩa và có tính chất sư phạm cơ bản trong đó ĐGH Phanxicô khẳng định
rõ ràng rằng “Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không
thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải
qua (...). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và
kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa
con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh,
không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo
nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn
bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (AL 260)
Phần
nói về sự giáo dục tính dục cũng rất quan trọng, mang tựa đề rất rõ ràng: “Đồng
ý về việc giáo dục tính dục”. Đây là điều cần thiết và ta tự hỏi xem “các
cơ sở giáo dục của chúng ta có đảm nhận thách đố ấy hay không (..) trong một thời
đại mà người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm cho tính dục trở nên nghèo nàn”.
Việc giáo dục
tính dục cần được thực hiện “trong khuôn khổ một nền giáo dục về
tình yêu, hiến thân cho nhau” (AL 280). ĐGH cảnh giác đối với những thành ngữ
như “tính dục an toàn” vì nó biểu lộ một thái độ tiêu cực đối
với mục đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể sự kiện đứa con là một
kẻ thù cần phải được bảo vệ để chống lại. Làm như thế người ta cổ võ sự gây hấn
tự yêu thương mình thay vì một thái độ tiếp đón” (AL 283).
* Chương VIII: “Tháp
tùng, phân định và hội nhập sự yếu đuối”
Chương
này là một lời mời gọi có lòng thương xót và phân định mục vụ trước những tình
trạng không hoàn toàn đáp ứng điều mà Chúa đề nghị. Ở đây ĐGH dùng 3 động từ rất quan
trọng, đó là “tháp tùng, phân định và hội nhập” là những điều cơ bản
trong việc đối phó với những tình trạng yếu đuối, phức tạp hoặc không hợp lệ.
Vì thế ĐGH trình bày sự tiệm tiến cần thiết trong mục vụ, tầm quan trọng của sự
phân định, các qui luật và hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ, và
sau cùng là điều mà ngài định nghĩa là “tiêu chuẩn thương xót mục
vụ”.
Chương
8 rất tế nhị. Để đọc chương này ta phải nhớ rằng “nhiều khi công việc
của Giáo Hội giống như công việc của một bệnh viện dã chiến” (AL 291). Ở đây
ĐGH đón nhận thành quả suy tư của Thượng HĐGM về các đề tài tranh luận khác
nhau. Ngài tái khẳng định ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo và thêm rằng ”những
hình thức kết hợp khác hoàn toàn trái ngược với lý tưởng hôn nhân Kitô giáo,
trong khi một số hình thức khác thể hiện lý tưởng ấy ít là một cách phần nào hoặc
tương tự”. Vì thế
Giáo Hội “không quên đề cao giá trị của những yếu tố xây dựng
trong những tình trạng chưa đáp ứng giáo huấn của Giáo Hội hoặc không đáp ứng nữa
giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân” (AL 292).
Về
sự phân định đối với những tình cảnh bất hợp lệ, ĐGH nhận xét rằng “Cần
tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau,
và cần phải chú ý đến cách thức những người sống và chịu đau khổ vì hoàn cảnh của
họ”
(AL 296). Và ngài viết tiếp: “Vấn đề ở đây là hội nhập tất cả mọi
người, phải giúp mỗi người tìm ra cách thức riêng của họ để tham gia cộng đoàn
Giáo Hội, để họ cảm thấy mình là đối tượng của một lòng thương xót không do
công trạng, vô điều kiện và nhưng không” (AL 297). Và “Những người ly dị
đang sống một cuộc kết hiệp mới, chẳng hạn, họ có thể ở trong những tình trạng
rất khác nhau, và không thể xếp loại hoặc khép họ trong những lời khẳng định
quá cứng nhắc mà không để chỗ cho một sự phân định thích hợp về con người và về
mục vụ” (AL 298).
Theo
đường hướng đó, đón nhận những nhận xét của nhiều nghị phụ, ĐGH khẳng định
rằng “những tín hữu đã chịu phép rửa mà ly dị và tái hôn dân
sự phải được hội nhập hơn vào các cộng đoàn Kitô trong những cách thức khác
nhau có thể, tránh mọi hình thức gây gương mù gương xấu”. Sự tham gia của họ có
thể được biểu lộ trong nhiều dịch vụ của Giáo Hội (..). Họ không nên cảm thấy
mình bị tuyệt thông, nhưng có thể sống và trưởng thành như các phần tử sinh động
của Giáo Hội (...). Sự hội nhập này cũng là điều cần thiết để chăm sóc và giáo
dục con cái theo tinh thần Kitô giáo” (AL 299).
Tổng
quát hơn, ĐGH đưa ra lời khẳng định rất quan trọng để hiểu hướng đi và ý nghĩa của
Tông Huấn: “Nếu để ý đến vô số những hoàn cảnh cụ thể khác nhau
(...) thì có thể hiểu rằng không nên mong đợi từ Thượng HĐGM hoặc từ Tông huấn
này một qui luật tổng quát mới thuộc loại giáo luật, có thể áp dụng cho mọi trường
hợp. Chỉ có thể có một sự khuyến khích mới hãy phân định bản thân và mục vụ
theo tinh thần trách nhiệm về những hoàn cảnh đặc biệt không giống nhau trong mọi
trường hợp”, những hậu quả hoặc những công hiệu của một qui luật không nhất thiết
phải luôn luôn như nhau” (AL 300). ĐGH khai triển một cách sâu rộng những đòi hỏi
và đặc tính của hành trình tháp tùng và phân định trong sự đối thoại sâu rộng
giữa các tín hữu và các vị mục tử. Với mục đích đó ngài nhắc nhở suy tư của
Giáo Hội về ”những ảnh hưởng và hoàn cảnh giảm khinh” về sự qui trách và trách
nhiệm những hành động, và dựa vào thánh Tôma Aquino, ngài dừng lại về tương quan
giữa “các qui luật và sự phân định” để khẳng định rằng: “Đúng
là các qui luật tổng quát trình bày một điều thiện hảo mà ta không bao giờ được
phép không để ý hoăc coi nhẹ, trong cách diễn tả các qui luật tổng quát ấy,
không thể tuyệt đối bao gồm mọi hoàn cảnh đặc thù. Đồng thời cần nói rằng chính
vì lý do đó, điều thuộc về sự phân định thực hành đứng trước một hoàn cảnh đặc
thù không thể đưa lên hàng một qui luật” (AL 304).
Trong phần chót của
chương 8, “tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ”, về sự mơ hồ, ĐGH mạnh mẽ khẳng
định rằng “Hiểu những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ bao hàm việc
che dấu ánh sáng lý tưởng trọn vẹn nhất và cũng không đề nghị ít hơn điều mà
Chúa Giêsu cống hiến cho con người. Ngày nay điều quan trọng hơn một nền mục vụ
về những thất bại, là cố gắng mục vụ để củng cố hôn nhân, cũng như phòng ngừa
những tan vỡ” (AL 307). Nhưng ý nghĩa tổng quát của chương 8 và tinh thần mà
ĐGH Phanxicô muốn đề ra cho việc mục vụ của Giáo Hội còn có thể tóm tắt rõ ràng trong những
lời cuối: “Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh
phức tạp hãy tín thác đến nói chuyện với các vị mục tử của mình hoặc với những
giáo dân đang sống tận tụy với Chúa. Họ sẽ không luôn luôn tìm thấy nơi những vị
ấy một sự khẳng định cách lý tưởng và những ước muốn của mình, nhưng chắc chắn
họ sẽ nhận được một ánh sáng giúp họ hiểu rõ hơn điều đang xảy ra và họ có thể
khám phá một hành trình trưởng thành bản thân. Và tôi mời các vị mục tử hãy
thân ái lắng nghe trong sự thanh thản, với ước muốn chân thành đi vào thảm kịch
của con người và hiểu quan điểm của họ, để giúp họ sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận
chỗ đứng của họ trong Giáo Hội” (AL 312). Về tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ,
ĐGH Phanxicô
mạnh mẽ khẳng định rằng: “nhiều khi chúng ta bị mất mát và phải
hy sinh nhiều khi dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu thương vô điều kiện của
Thiên Chúa. Chúng ta đặt bao nhiêu điều kiện cho lòng từ bi khiến cho nó không
còn ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa đích thực nữa, và đây là cách thức tệ nhất làm
tan loãn Tin Mừng” (AL 311).
*
Chương IX: Linh đạo hôn nhân và gia đình
Chương
9 bàn về linh
đạo hôn nhân và gia đình, “được hình thành bằng hàng ngàn cử chỉ
thực tế và cụ thể” (AL 315). ĐGH khẳng định rõ ràng rằng “những người có những
ước muốn linh đạo sâu xa không được cảm thấy gia đình làm cho họ xa rời sự tăng
trương trong đời sống Tinh Thần, nhưng gia đình là một con đường Chúa dùng để
đưa họ đến tột đỉnh sự kết hiệp thần bí” (AL 316). Tất cả, “những
lúc vui mừng, an nghỉ hoặc lễ hội, và cả tính dục, được cảm nghiệm như một sự
tham gia sự sống sung mãn của sự phục sinh của Chúa” (AL 317). Vì thế, Tông huấn
nói về kinh nguyện dưới ánh sáng Phục Sinh, linh đạo tình yêu loại trừ người thứ
ba, và tự do trong thách đố và khát vọng sống với nhau cho đến ”đầu bạc răng
long”, phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa (Xc AL 319).
Và
sau
cùng linh đạo “chăm sóc, an ủi và khích lệ”. “Trọn cuộc sống gia
đình là một đồng cỏ từ bi. ĐTC viết: Mỗi người, kỹ lưỡng vẽ và viết lên trong
cuộc sống của người khác” (AL 322). Thật là một “kinh nghiệm thiêng
liêng sâu xa khi chiêm ngắm mỗi người yêu quí với đôi mắt của Thiên Chúa và nhận
ra Chúa Kitô nơi người ấy” (AL 323)
Trong
đoạn kết luận, ĐTC quả quyết: “Không có gia đình nào là một thực tại hoàn hảo
và được kết thành một lần cho tất cả, nhưng đòi một sự tiến triển từ từ khả
năng yêu thương của mình (...). Tất cả chúng ta được kêu gọi luôn cố gắng đi xa
hơn chính mình, những giới hạn của mình và mỗi gia đình phải sống trong sự
khích lệ liên tục như thế. Các gia đình chúng ta hãy tiến bước, chúng ta hãy tiếp
tục bước đi! (...). Chúng ta đừng đánh mất hy vọng vì những giới hạn của mình,
nhưng cũng đừng từ bỏ không tìm kiếm tình yêu và sự hiệp thông sung mãn đã được
hứa cho chúng ta” (AL 325).
Tông
Huấn kết thúc với một kinh nguyện dâng lên Thánh Gia Thất (AL 325).
G.
Trần Đức Anh OP chuyển ý