ĐẠI HỘI TRUYỀN GIÁO - GIÁO PHẬN XUÂN LỘC
TÂN PHÚC ÂM HÓA
TRONG THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ
LẦN THỨ 13
Hội nghị Thượng Hội đồng Giám mục (THĐGM)
Thế giới Thường kỳ lần thứ 13 diễn ra tại Roma từ ngày 7-10 đến 28-10-2012 về
chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”.
Đã có nhiều bản phúc trình, nhiều tham luận,
nhiều buổi họp nhóm và đúc kết. Thành quả cụ thể của ba tuần lễ làm việc làSứ
điệp gửi toàn thể Dân Chúa và 58 Đề nghị được đệ trình lên
Đức Thánh Cha. Sứ điệp đã được công bố, còn các Đề nghị, trên nguyên tắc, được
dành riêng cho Đức Thánh Cha, tuy nhiên lần này, ngài chấp thuận cho phổ biến bản
dịch tiếng Anh, nhưng bản dịch chỉ mang tính thông tin chứ không có giá trị
chính thức. Các thông tin về THĐ đã được phổ biến trên các trang web, nay chỉ
xin trình bày một ít điểm nhấn về chủ đề tân Phúc Âm hóa từ cảm nhận của một
người tham dự Hội nghị.
1. Ý
nghĩa của từ ngữ
ĐTC Gioan-Phaolô II là người đầu tiên
dùng từ “Tân Phúc Âm hóa” vào năm 1979 khi ngài về thăm quê hương Ba Lan. Đến
năm 1983, trong cuộc nói chuyện với Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh, ngài
xác định ý nghĩa của từ ngữ “mới” : không phải là một Phúc Âm mới, nhưng
là “mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong cách diễn tả” (ĐTC
Gioan-Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội XIX của CELAM, Port-au-Prince, 9-3-1983,
s.3).
Trong bài giảng thánh lễ khai mạc THĐGM
ngày 7-10-2012, ĐTC Bênêđictô XVI xác định : Tân Phúc Âm hóa “chủ yếu hướng
tới những người, tuy đã được rửa tội, nhưng đang xa lìa Giáo hội, và sống
mà không hề tham chiếu về luân lý Kitô giáo (...), để giúp họ tái gặp
gỡ Chúa, là Đấng duy nhất làm cho cuộc sống chúng ta có được ý nghĩa sâu xa và
an bình ; để giúp tái khám phá đức tin, là nguồn mạch ân sủng mang lại
vui mừng và hy vọng trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội”.
Tân Phúc Âm hóa không có nghĩa là loan
báo một Phúc Âm mới. Chỉ có một Phúc Âm duy nhất, vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một,
hôm qua cũng như hôm nay và như vậy đến muôn đời” (Dt 13, 8). Để tránh ngộ nhận,
có lẽ nên nói : “Phúc Âm hóa trong bối cảnh mới”, hoặc “đổi mới Phúc Âm
hóa trong hoàn cảnh hiện nay”.
2. Bối
cảnh mới
Công cuộc Phúc Âm hóa được gọi là mới, hoặc
cần được đổi mới, vì các Kitô hữu đang sống trong một bối cảnh xã hội mới. Thế
giới ngày nay có nhiều thay đổi sâu xa, nhiều hoàn cảnh đặc thù khác nhau.
- Một
xã hội tục hóa : con người không bận tâm đến Thiên Chúa nữa, nhưng đi tìm
sự sung túc vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ. Các giá trị luân lý bị coi nhẹ :
tiêu chuẩn luân lý dựa trên sở thích và số đông, ví dụ vấn đề hôn nhân, phái
tính, sinh học.
Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, việc tham
dự bí tích giảm sút trầm trọng, nhiều nơi hầu như quên hẳn bí tích giải tội.
Nhiều Kitô hữu không hiểu biết giáo lý. Việc trình bày giáo lý tại một số trường
học công giáo bị cấm. Một vài nước cấm trình bày công khai những biểu tượng
Kitô giáo.
- Do
ảnh hưởng toàn cầu hóa, não trạng tục hóa đang lan rộng khắp nơi trên thế giới,
ngay cả tại các nước châu Á vốn quí trọng tôn giáo, nhưng ngày nay Thiên Chúa
cũng đang bị loại dần khỏi đời sống người dân.
Châu Á chiếm tới 60% dân số hoàn cầu,
trong đó Trung Quốc và Ấn độ chiếm 37% dân số thế giới, nhưng các Kitô hữu chỉ
chiếm 2% dân số. Ngày xưa, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử để lại 99
con chiên trong đàn để đi tìm một con chiên lạc ; nhưng ngày nay tại nhiều
cộng đoàn, chỉ có một con chiên trong đàn, còn 99 con đang đi lạc.
- Tại
nhiều quốc gia, các chế độ độc tài tìm cách giới hạn, cấm cách, bách hại, quấy
nhiễu, can thiệp vào tôn giáo. Các Kitô hữu chịu thiệt thòi và không được tự do
thực hành tôn giáo.
- Cảnh
nghèo đói gia tăng, tình trạng di dân ồ ạt, là những thách đố lớn tác động sâu
xa trên đời sống đức tin của tín hữu.
- Một
số tín đồ của Hồi giáo và Phật giáo đi theo khuynh hướng cực đoan. Các nhà thờ
bị đốt, các Kitô hữu bị giết, Giáo hội không được giảng đạo và rửa tội. Tình trạng
trở nên trầm trọng hơn khi các tôn giáo ấy là quốc giáo. Một số tín hữu Chính
Thống giáo cũng có những hành động cực đoan, cấm cách các tín hữu Công giáo. Tại
nhiều nơi ở Trung Đông, các Kitô hữu sống trong ngột ngạt và lo sợ.
- Các
giáo phái ngày càng nhiều và lan rộng, ảnh hưởng trên đời sống đức tin của các
Kitô hữu. Đức tin Kitô giáo bị cắt xén để đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của
con người. Đức Kitô mà các giáo phái loan truyền không còn là Đức Kitô của Phúc
Âm.
Hoàn cảnh của thế giới hôm nay là những
thách đố lớn cho đời sống đức tin của các Kitô hữu. Rất nhiều tín hữu tuy không
chối bỏ đức tin nhưng đã trở thành dửng dưng thờ ơ với đời sống đạo, xa lìa
Giáo hội, sống theo tinh thần thế gian chứ không qui chiếu về các giá trị đạo đức
của Phúc Âm.
Trong bối cảnh ấy, các môn đệ Đức Kitô
không được sợ hãi. Bao nhiêu thách đố phải là bấy nhiêu cơ hội mới để loan báo
Tin Mừng. “Nghĩa vụ của chúng ta là phải khắc phục sợ hãi bằng đức tin,
chiến thắng sự hèn nhát bằng niềm hy vọng, và sự dửng dưng lãnh đạm bằng tình
yêu. Lòng can đảm thanh thản ấy cũng ảnh hưởng đến cái nhìn của chúng ta về thế
giới ngày nay. Chúng ta không cảm thấy nhát sợ vì những hoàn cảnh chúng ta đang
sống. Thế giới chúng ta đầy những mâu thuẫn và thách đố, nhưng vẫn là công
trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thế giới này tuy bị tổn thương vì sự ác, nhưng vẫn
luôn được Thiên Chúa yêu thương. Thế giới này là một cánh đồng trong đó có thể
canh tân việc gieo vãi Lời Chúa để tái mang lại hoa trái.
Không có chỗ đứng cho sự bi quan trong
tâm trí những người biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết và Thánh Linh của
Chúa hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Với lòng khiêm tốn và quyết tâm, một thái
độ đến từ xác tín sự thật sau cùng sẽ chiến thắng, chúng ta đến với thế giới
này và muốn thấy trong đó một lời mời gọi của Thiên Chúa trở thành chứng nhân về
Danh Thánh của Ngài. Giáo hội chúng ta sinh động và, với niềm can đảm của đức tin
và chứng tá của bao nhiêu con cái mình, Giáo hội đương đầu với những thách đố
do lịch sử đề ra.” (Sứ điệp THĐGM 2012, ss. 5-6)
Phải đặt công cuộc Phúc Âm hoá trong bối
cảnh của lịch sử Giáo hội, từ thời kỳ sơ khai, qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Mỗi thời đều có những khó khăn riêng, mỗi giai đoạn đều có thể được coi
là khủng hoảng, nhưng từ những tình huống cụ thể, Chúa Thánh Thần dẫn dắt Giáo
hội tiến lên và làm chứng cho Đức Kitô trong bối cảnh lịch sử đương thời. Những
khó khăn không phải là những cản trở cho bằng là những lời mời gọi trong một
giai đoạn mới. Chẳng hạn sự kiện di dân ồ ạt ngày nay đặt ra biết bao vấn đề
cho việc thực hành đạo, hôn nhân, hội nhập vào cộng đoàn giáo xứ, nhưng ngược lại,
đó cũng là cơ may cho Giáo hội, vì nếu được hướng dẫn, chính họ cũng trở thành
tác nhân truyền giáo, như Cv 8, 1-8 minh chứng.
“Đức tin đang có nguy cơ bị lu mờ trong
những bối cảnh văn hóa cản trở không cho đức tin trở nên sâu xa hơn nơi bản
thân, cản trở sự hiện diện của đức tin trong xã hội … Bối cảnh văn hóa và xã hội
thay đổi kêu gọi chúng ta phải làm cái gì mới: đó là sống một cách mới mẻ kinh
nghiệm cộng đồng của chúng ta về đức tin” (Sứ điệp s. 2)
Thế giới hôm nay dường như ngày càng vắng
bóng Thiên Chúa. Vì thế, một mặt, phải làm sao để củng cố các Kitô hữu vẫn đang
sống đức tin để họ không bị chao đảo và rơi vào nguy cơ rời bỏ đức tin, đồng thời
giúp những người đã rời bỏ Giáo hội tìm lại đức tin ; mặt khác, trước trào
lưu thế tục hóa, cần nỗ lực Phúc Âm hóa các lãnh vực của cuộc sống để chúng được
thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Đó là nhiệm vụ của tân Phúc Âm hóa.
3. Điểm
khởi hành : gặp gỡ Đức Kitô
Khi đặt vấn đề Tân Phúc Âm hóa, nhiều người
nghĩ đến các chiến lược trên bình diện xã hội hoặc tâm lý. Đây không phải là vấn
đề của kỹ thuật tuyên truyền, không phải là nghĩ ra một chiến thuật mới, “như
thể Tin Mừng là một sản phẩm cần tung ra trên thị trường các tôn giáo” (Sứ điệp s.
4), để giành lại một số người hoặc một số vùng đất đã mất trước ảnh hưởng
của xã hội tục hoá hay của các tôn giáo khác.
Phúc Âm hóa vốn là một đòi hỏi tự yếu
tính của đời sống Kitô hữu : làm chiếu toả niềm vui của người môn đệ Đức Kitô.
Tất cả mọi Kitô hữu, không chỉ giáo sĩ hay tu sĩ, cần sống ơn gọi Kitô hữu cách
sung mãn, vui tươi hạnh phúc vì được đón nhận Tin Mừng và sống theo Tin Mừng,
và từ đó, được thúc đẩy từ niềm vui bên trong để hăng say nhiệt thành chia sẻ
tin vui cho anh chị em. “Giáo hội tự bản chất là truyền giáo”.
a) Điều đầu tiên là phải
làm mới lại nhiệt tình truyền giáo. Tuy nhiên đây không phải là sự sôi nổi hăng
say hoặc hiếu động trên bình diện tâm lý, mà là niềm vui sống đời Kitô hữu phát
xuất từ sự gặp gỡ cá vị với Đức Kitô. Rất nhiều nghị phụ tại THĐGM đã nhấn
mạnh điều này. Các Kitô hữu cần làm mới lại đời sống Kitô hữu : “xuất
phát lại từ Đức Kitô”, khám phá vẻ đẹp và sự mới mẻ ngàn đời của Đức Kitô, để
nhờ đó làm cho tương quan giữa bản thân với Đức Kitô được sống động và chi phối
toàn thể cuộc sống hằng ngày. Chỉ khi nào “ở lại” trong Chúa, đời sống Kitô hữu
mới trổ sinh hoa trái. Đó là điều kiện sinh tử.
Vì thế các Kitô hữu cần chiêm ngắm tôn
nhan Đức Kitô và hiệp thông vào sự sống của Ngài, đặc biệt trong “Giáo hội là không
gian mà Đức Kitô trao tặng trong lịch sử” để chúng ta gặp gỡ Ngài (Sứ điệp s.
3). Trong Giáo hội, chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ bí tích rửa
tội, được lãnh nhận Mình Máu Chúa Giêsu, ơn hòa giải, sức mạnh của Chúa Thánh
Thần.
Việc đọc và suy gẫm Kinh Thánh mang tầm mức
hết sức quan trọng, vì ở đó ta gặp gỡ Chúa Giêsu, khám phá dung mạo của Ngài, đồng
thời học được những kinh nghiệm truyền giáo của chính Chúa Giêsu và các tông đồ
trong Giáo hội sơ khai, ví dụ : các môn đệ đầu tiên, người phụ nữ Samaria,
ông Giakêu, sĩ quan Roma, ông Cornêliô, vv.
b) Sống
trong Chúa Thánh Thần
“Chúa Thánh Thần là Đấng chủ động của
công cuộc Phúc Âm hoá” (Tđ.Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc s. 36). Ngài tác động
trong Giáo hội cũng như nơi mỗi người tông đồ truyền giáo, và cả trong thế giới
và trong tâm hồn những người chưa biết Thiên Chúa. “Chúng ta tín thác nơi
sự soi sáng và nơi sức mạnh của Thánh Linh, Đấng sẽ dạy chúng ta những gì chúng
ta phải nói và điều chúng ta phải làm, cả trong những lúc khó khăn nhất.” (Sứ
điệp s. 5)
Từ biến cố Hiện Xuống, Công đồng
Giêsusalem, cho tới hôm nay, Đức Kitô phục sinh luôn ban Chúa Thánh Thần để
Giáo hội đối diện với những tình huống mới và làm lan toả quyền năng của Tin Mừng
trong thế giới.
Từ đó, vấn đề đặt ra là cần lắng nghe
Chúa Thánh Thần và nhận ra sự thúc đẩy của Ngài, nhờ đời sống chiêm niệm, cầu
nguyện, lắng nghe Lời Chúa.
Người loan báo Tin Mừng phải là một vị
thánh nhờ sự hoán cải liên tục để trở thành chứng nhân sống động của Tin Mừng.
Đời sống thánh thiện là điều kiện tiên quyết cho công cuộc loan báo Tin Mừng
trong giai đoạn mới.
“Chúng ta không bao giờ được nghĩ rằng việc
tân Phúc Âm hóa không liên can trước tiên tới chính chúng ta. Trong những ngày
này, nơi các giám mục chúng tôi, nhiều lần có những tiếng nói được gióng lên nhắc
nhở rằng để có thể rao giảng Tin Mừng cho thế giới, thì trước tiên Giáo hội cần
đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi rao giảng Tin Mừng được
diễn tả qua lời kêu gọi hoán cải.”
“Chúng ta hãy tin chắc rằng chúng ta phải
là những người trước hết cần phải hoán cải, cần phải trở về với quyền năng của
Chúa Kitô, là Đấng duy nhất có thể đổi mới mọi sự, nhất là đổi mới cuộc sống
nghèo nàn của chúng ta. Với lòng khiêm tốn chúng ta phải nhìn nhận rằng sự
nghèo nàn và yếu đuối của các môn đệ Chúa Giêsu, đặc biệt là nơi các thừa tác
viên của Ngài, đè nặng trên uy tín của việc truyền giáo. Chắc chắn các giám mục
chúng tôi là những người đầu tiên ý thức rằng chúng ta không bao giờ có thể xứng
đáng với ơn gọi và mệnh lệnh của Chúa để loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Chúng
ta phải biết khiêm tốn nhìn nhận sự dễ tổn thương của chúng ta đối với những vết
thương của lịch sử và không do dự nhìn nhận những tội lỗi cá nhân của chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng xác tín rằng sức mạnh của Thánh Thần Chúa có thể canh tân
Giáo hội của Ngài và làm cho chiếc áo của Giáo hội được rạng người, nếu chúng
ta để cho Chúa uốn nắn. Cuộc sống của bao nhiêu vị thánh chứng tỏ điều đó, việc
tưởng niệm và kể lại cuộc sống của các vị là một phương thế ưu tiên trong công
cuộc tân Phúc Âm hóa.”(Sứ điệp s. 5)
4. Những
lãnh vực cần được quan tâm
Để thực thi công cuộc tân Phúc Âm hóa,
Thượng Hội đồng mời gọi duyệt xét lại và đổi mới các hoạt động mục vụ của Giáo
hội trong bối cảnh mới của thế giới, và động viên mọi thành phần Dân Chúa dấn
thân vào chương trình cấp bách này. Có những lãnh vực được quan tâm nhiều hơn.
1) Trên bình
diện cơ cấu, tại giáo triều Roma đã có Hội đồng Giáo hoàng cổ cõ tân Phúc Âm
hóa, nên Thượng Hội Đồng cũng đề nghị mỗi Hội đồng Giám mục thành lập thêm một ủy
ban đặc trách vấn đề này. Ngoài ra cần mở thêm một phân khoa chuyên ngành về
tân Phúc Âm hóa trong các trường đại học Công giáo.
2) Giáo lý
cho người lớn phải được trình bày có hệ thống, có nền tảng Thánh Kinh, lưu ý đến
chiều kích linh đạo và phụng vụ, để giúp các tín hữu ngày càng được củng cố
trong ơn gọi Kitô hữu. Ngoài ra, ngày nay vấn đề sự dữ và các khoa học về thiên
nhiên và sự sống đặt ra nhiều vấn nạn và là một thách đố cho đức tin ; vì
thế giáo lý cần trình bày những lý lẽ của đức tin cách mới mẻ, rõ ràng và chắc
chắn.
Trên phương diện thần học, cần soạn những
tài liệu “khai mở cho đức tin (preambula fidei) và thần học về tính khả tín” của
đức tin Kitô giáo, nhất là trong môi trường văn hóa ngày nay đang hoài nghi về
chân lý.
3) Trong
công cuộc Phúc Âm hóa, cử hành phụng vụ, đặc biệt ngày Chúa nhật, có tầm quan
trọng đặc biệt. Nhờ phụng vụ, con người gặp gỡ Thiên Chúa để từ đó đi vào đời sống
chiêm niệm và củng cố tương quan bạn hữu với Thiên Chúa. Cách riêng, cần quan
tâm đến hai bí tích đang có nguy cơ bị coi nhẹ : thêm sức và hòa giải.
Các nghi thức khai tâm Kitô giáo không phải
chỉ là thủ tục pháp lý, nên cần được cử hành theo một tiến trình có chuẩn bị kỹ
lưỡng để người dự tòng dần dần được dẫn vào đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu
qua các bí tích.
4) Chiều
kích “đẹp” của đức tin được đề cập khá nhiều. Thiên Chúa là “Chân, Thiện, Mỹ”
tuyệt đối. Con người không thể yêu mến Thiên Chúa nếu Ngài không “đẹp” (thánh
Augustinô). Cần làm nổi bật vẻ đẹp của đức tin trong các cuộc cử hành phụng vụ,
đầu tư nhiều hơn cho các công trình của nghệ thuật thánh để qua đó giới thiệu Đức
Kitô cho thế giới. “Vẻ đẹp của đức tin phải rạng ngời, đặc biệt trong các
hoạt động phụng vụ thánh, nhất là trong thánh lễ Chúa nhật” (Sứ điệp s.
3).
5) Một trong
ba khía cạnh của tân Phúc Âm hóa là đổi mới phương pháp. Các phương tiện
truyền thông xã hội ngày nay là phương thế tối quan trọng trong việc thông truyền
đức tin Kitô giáo trong ngôi làng thế giới. Nhiều sai lạc về đức tin và nhiều lối
sống trái ngược Tin Mừng đang tác động mạnh mẽ trên con người qua con đường của
các phương tiện truyền thông. Nếu không biết sử dụng các phương pháp mới, đức
tin và lối sống Tin Mừng khó đi vào trí lòng của con người thời nay.
Đối thoại là một phương thế được con người
ngày nay đề cao và dễ chấp nhận. Đối thoại bao hàm lắng nghe và phát biểu, nhận
và cho, trong sự khiêm tốn và kính trọng nhau. Đối thoại liên tôn và đối thoại
với những người không tin, những nhà trí thức trong lãnh vực văn hóa và khoa học
(“Sân chư dân”) : đây là những hoạt động không thể coi nhẹ trong công cuộc
tân Phúc Âm hóa, nhất là trong những môi trường có những người theo chủ nghĩa cực
đoan.
6) Giáo xứ
được ví “như giếng nước đầu làng để mọi người có thể giải khát, tìm được sự
tươi mát của Tin Mừng” (Sứ điệp s. 8). Do đó cần canh tân các sinh hoạt mục
vụ của giáo xứ nhằm nuôi dưỡng đức tin và sự hiệp thông để các tín hữu gắn bó với
giáo xứ.
Các trung tâm hành hương và lòng
đạo đức bình dân góp phần lớn trong việc khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin của nhiều
giáo dân. Tuy nhiên cần làm thế nào để các tín hữu đạt tới đức tin trưởng thành
dựa trên việc lắng nghe Lời Chúa để hoán cải và sống Phúc Âm trong sự hiệp
thông Giáo hội.
Gia đình Kitô hữu là Giáo hội tại gia và
là trường dạy đức tin đầu tiên, nên có sứ mạng cao cả là thông truyền đức tin
cho con cái. Trong chương trình tân Phúc Âm hóa, cần thăm viếng và chăm sóc mục
vụ cho các gia đình, đặc biệt đối với những người đã ly dị, những người sống
chung không kết hôn, hôn nhân đồng tính, những người sống một mình, vấn đề giáo
dục giới tính.
Các mục tử cần quan tâm nhiều hơn đến các
cộng đoàn Kitô hữu cơ bản, các phong trào công giáo tiến hành, các phong trào
canh tân ơn gọi Kitô hữu, các đặc sủng Thánh Linh. Nếu biết phân định cách sáng
suốt để có sự hài hòa quân bình trong Giáo hội-Nhiệm Thể, các cộng đoàn này sẽ
góp phần rất lớn trong việc đem lại sinh lực tươi trẻ cho đời sống đức tin và
cho việc loan báo Tin Mừng. Điều này ngày càng trở nên quan trọng, vì ngày nay
các giáo phái xuất hiện nhiều và có sức lôi cuốn mạnh mẽ nhờ loan báo một Đức
Giêsu chữa lành và giải phóng khỏi mọi ràng buộc, nhờ sự quan tâm cá vị đến từng
người, tạo được tình thân trong nhóm, và do đó, tạo được niềm vui hứng khởi
tinh thần.
7) Trong sứ
mệnh tân Phúc Âm hóa, người nghèo là “sự chọn lựa ưu tiên” của Giáo hội để chăm
lo cho họ. Ngày nay ý niệm nghèo không chỉ hiểu trên bình diện kinh tế, mà còn
mang nhiều khuôn mặt mới, đó là người ốm đau và bị bỏ rơi, di dân, người bị gạt
ra bên lề xã hội và nhân phẩm bị chà đạp, nạn nhân của chiến tranh và của bất
công, các tệ nạn xã hội, dân bản xứ … Cách diễn tả mới của tân Phúc
Âm hóa không phải chỉ là ngôn ngữ thần học phù hợp với thời đại, mà còn là đức
ái. Sự dấn thân phục vụ người nghèo là ngôn ngữ của Phúc Âm mà ai cũng có thể
hiểu được.
Giáo hội yêu thương người nghèo, nhưng
còn phải hành động nhân danh họ. Trong chiều hướng ấy, các giáo huấn xã hội của
Giáo hội phải được đưa vào nội dung giáo lý và chương trình huấn luyện ở mọi cấp
độ.
Công cuộc tân Phúc Âm hóa cần lưu tâm đặc
biệt đến giới trẻ để giúp họ thực sự gặp gỡ Đức Kitô và đón nhận Tin Mừng của
Ngài, hướng dẫn họ phát triển con người toàn diện và biết phân định điều tốt điều
xấu, nhất là trước ảnh hưởng rất lớn của các phương tiện truyền thông xã hội.
Hơn nữa, chính người trẻ cũng được mời gọi để trở thành tác nhân loan báo Tin Mừng
cho người trẻ.
Một đối tượng đặc thù của việc loan báo
Tin Mừng trong giai đoạn mới là các thành phố. Trước đây công cuộc truyền giáo
nhắm đến vùng thôn quê, nhưng ngày nay cần chú ý nhiều hơn đến các thành phố,
không những vì tại nhiều thành phố Thiên Chúa đã vắng bóng, mà còn vì lối sống
tại thành phố có ảnh hưởng lớn trên lối sống của người dân mọi miền trong đất
nước ; hơn nữa, chính các thành phố định hình cho tương lai của các quốc
gia trẻ. Làm thế nào để Tin Mừng cũng được loan báo cho những người hoạt động
trong lãnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị ?
5. Vui
mừng và hy vọng
Tại Thượng Hội đồng, không phải chỉ thuần
túy là lý thuyết. Người ta được nghe khá nhiều chứng từ của mọi thành phần Dân
Chúa : từ các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ, đến giáo dân, người già,
giới trẻ, nam cũng như nữ, thuộc mọi tổ chức trong Giáo hội. Các chứng từ tuy
nhỏ bé và âm thầm, nhưng lại góp phần rất lớn vào công cuộc tân Phúc Âm hóa và
đổi mới xã hội.
Người ta vui mừng và trân trọng lắng nghe
chứng từ của nhiều giáo dân đã tích cực làm tông đồ trong mọi lãnh vực và có
nhiều sáng kiến đem Tin Mừng cho mọi người. Những thành quả đôi khi rất lạ
lùng. Chẳng hạn hiệp hội Alpha do hai ông bà Marc và Florence De Leyritz sáng lập
tại Pháp và đang phát triển sang một số nước : việc tông đồ đơn giản chỉ
là đến gặp gỡ các gia đình, dạy giáo lý, chia sẻ kinh nghiệm sống qua bữa ăn
huynh đệ, thế mà hằng năm 1/3 số người được rửa tội trong tổng giáo phận Paris
là do nhóm Alpha này dẫn đến với Chúa.
Sứ điệp của THĐ mời gọi không được bi
quan. Nói như thế là vì thực sự đã có nhiều ưu tư cho tương lai của Giáo hội.
Nhưng dù thực tế có những trở ngại khó khăn, Giáo hội vẫn luôn bước đi trong
vui mừng và hy vọng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng chủ động trong công cuộc truyền
giáo vẫn luôn hướng dẫn Giáo hội trong sứ mạng làm chứng cho Đức Kitô. Ngay cả
khi có những bách hại, tử đạo và cấm cách, thì đó không phải là định mệnh áp đặt
trên Giáo hội. Thập giá là con đường tất yếu mà Giáo hội phải đi và là hạt giống
làm trổ sinh các Kitô hữu, và những giai đoạn đau thương chính là thời kỳ quặn
đau để sinh những người con mới trong một thế giới mới cho Thiên Chúa.
Chúng ta chờ đợi Đức Thánh Cha ban hành
tông huấn hậu THĐ để đưa ra những giáo huấn áp dụng cho toàn thể Giáo hội. Thế
giới tục hóa muốn gạt bỏ Thiên Chúa, nhưng tận sâu xa, đó lại là một sự trống rỗng
to lớn khao khát được lấp đầy bằng chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Nhân
loại khao khát nước đem lại sự sống, nhưng thế giới lại có quá nhiều nguồn nước
đục ô nhiễm (x. Sứ điệp s.1). Công cuộc tân Phúc Âm hóa đòi chúng ta
dấn thân nhiều hơn nữa để giới thiệu Chúa Giêsu là nước hằng sống đích thực cho
con người.
+ Giuse Nguyễn Năng