KHÁI QUÁT
VỀ TRUYỀN GIÁO
Truyền giáo.
Truyền giáo học.
Người Công giáo giữa thế giới ngày nay.
Trao đổi thừa sai.
Những khuynh hướng mới trong thần học truyền giáo.
Các giám mục Á Châu (FABC) với việc truyền giáo.
Người truyền giáo .
TRUYỀN GIÁO
Thần học công giáo về sứ vụ truyền giáo ngày nay khởi phát từ CĐ Vaticanô II. Hai văn kiện chứa đựng giáo lý phong phú và đầy đủ nhất về chủ đề này là Ánh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium-LG) và Ðến Với Muôn Dân (Ad Gentes-AG). Công Đồng đã khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha.” (AG 2).
Giữa các hoạt động có tính cách lịch sử của Giáo Hội, hoạt động truyền giáo là hoạt động số một: “Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ (epiphania) hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa cùng hoàn tất ý định ấy nơi dương thế, trong lịch sử trần thế ...” (AG 9b; x. 7c). Ý định của Thiên Chúa là “quy tụ mọi sự về cùng một Thủ Lãnh duy nhất” (thánh Irênêô), đang được thể hiện qua công cuộc truyền giáo, “bởi vậy, mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ cao cả này là phải làm sao để ý định cứu độ của Thiên Chúa đạt đến được ngày càng thiết thực hơn, với hết mọi người ở khắp mọi nơi và trong mọi thời đại.” (LG 33d; AG 36).
Từ sau Công Đồng, đã có nhiều sách viết về chủ đề truyền giáo. Nhiều tạp chí chuyên đề “Truyền Giáo” cũng đã xuất hiện. Thần học cũng nỗ lực cho thấy “bản chất” ấy là như thế nào. Từ đó, xuất hiện nhiều sách báo bàn về các đề tài liên quan đến truyền giáo, như rao giảng Tin Mừng, đối thoại tôn giáo, hội nhập văn hóa, phát triển và truyền giáo, v.v. Nhưng ngược lại, số các nhà truyền giáo được sai đi ngày càng ít đi vì hai lý do chính: 1) Lý do lịch sử: công cuộc truyền giáo đã phần nào dính líu với phong trào đế quốc tây phương (thực dân), nên khi các thuộc địa dành được độc lập và tự do, nhiều nơi từ chối nhận các nhà truyền giáo 2) Lý do thần học (thần học về các tôn giáo): giáo lý cổ truyền dạy rằng bất cứ ai cố gắng sống theo lương tâm, làm lành lánh dữ thì đều có thể được cứu độ(x. LG 16. Do đó, đã có quan điểm: cứ giữ như trước, không cần truyền giáo nữa!
Ò Thông Điệp Sứ Mệnh Ðấng Cứu Ðộ (Redemptoris Missio, 1990) đã tái khẳng định bản chất truyền giáo của Giáo Hội và nhấn mạnh đến ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của sứ mệnh truyền giáo. Vì thế, thần học đã phải suy xét lại về quá khứ và chuẩn bị cho tương lai, nhằm thực hiện sứ mệnh Ðức Kitô đã ký thác cho Giáo Hội giữa lòng lịch sử.
TRUYỀN GIÁO HỌC
Truyền giáo học là khoa suy tư thần học về sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Dọc theo lịch sử Giáo Hội, biết bao nhà thừa sai đã dấn thân cho công cuộc truyền giáo. Giáo Hội cũng đã công bố nhiều tài liệu về truyền giáo. Tuy nhiên, vẫn không thấy thần học soạn ra một chuyên khoa, thiết lập một bộ môn đặc biệt, và cũng không thấy các đại học mở phân khoa về “Truyền giáo học.”
Mãi cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Truyền giáo học có hệ thống mới bắt đầu xuất hiện, khởi đầu từ phía các anh em Tin lành với Karl Graul († 1864) và nhất là với Gustav Warneck († 1910). Phía Công giáo có Rudolf Cornely († 1908), Friedrich Schwager († 1929) và đặc biệt là Josef Schmidlin (1876-1944), người thường được gọi là ông tổ của Truyền giáo học công giáo.
Cha Schmidlin đã ảnh hưởng sâu rộng trên tư tưởng công giáo qua trường Muenster (ở Ðức quốc, sáng lập năm 1910) với đặc điểm là nêu bật việc trở lại của dân ngoại.
Trường Louvain (Bỉ), do cha Pierre Charles, S.J. sáng lập với chủ trương “mở rộng biên cương Giáo Hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng thờ, tức là để mang lại cho Ðấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Người.” Lập trường này đã được Công Đồng Vaticanô II chấp nhận và điều hòa với các quan điểm khác (x. AG 6).
Hai trường Tây ban nha và Paris thì hầu như hoàn toàn rập theo chủ hướng của trường Louvain.
Trường Tuebingen, ở Ðức, do J. S. Drey († 1853) sáng lập, quan niệm Giáo Hội như một cơ thể sống động nhờ Thần Khí hiện diện. Theo giáo thuyết này, công cuộc truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội, một Giáo Hội đang tự xây dựng mình lên, nghĩa là nhờ Thiên Chúa thúc đẩy Giáo Hội cố gắng vun trồng, nuôi dưỡng, hoàn thiện và hoàn chỉnh đức tin trong bác ái, giữa lòng mọi dân tộc.
Ðức Bênêđíctô XV († 1922) đã muốn thành lập một Viện Cao Học về Truyền giáo học.
Mãi đến năm 1932, Phân khoa Truyền giáo học đầu tiên mới được thiết lập tại Ðại Học Grêgôriana (Rôma), và năm sau, tại Ðại Học của Propaganda Fide (bộ Truyền bá Ðức tin). Tiếp sau đó, nhiều phân khoa Truyền giáo học đã xuất hiện, chẳng hạn như tại Ðại Học Comillas (Tây ban nha), Institut Catholique de Paris, Louvain (Bỉ), Fordham (Hoa Kỳ), v.v.
Sau Vaticanô II, vì công cuộc truyền giáo gặp phải khủng hoảng cả về mặt lý thuyết lẫn trong bình diện thực hành, nên Ðức Gioan Phaolô II, qua thông điệp Sứ Mệnh Ðấng Cứu Ðộ (Redemptoris Missio, 1990), đã khẳng quyết về ý nghĩa đích thực của sứ vụ truyền giáo.
Ý NGHĨA MỘT SỐ TỪ NGỮ
Tiếng Việt thường dùng thuật ngữ “truyền giáo”, “rao giảng Tin Mừng”, “loan báo Tin Mừng”, “truyền giảng Tin Mừng’, để diễn tả nội dung hoạt động của Truyền giáo học. Gần đây lại có thêm từ “phúc-âm-hóa” (evangelization).
Các tiếng Tây phương, gốc Latinh, thường dùng thuật ngữ missio với những ý nghĩa khác nhau, tùy theo trường phái hoặc tác giả. Cần lưu ý cách riêng đến một số thuật ngữ:
1/ missio, mission
Nói chung, “missio” là đối tượng của “missiologia;” “missio” bởi động từ Latinh mittere (“sai đi”). Trong Kinh Thánh, không thấy từ này, nhưng các lãnh tụ như Môsê (x. Xh 3,15) hoặc Ghêđêôn (x. Tl 6,4), và các ngôn sứ (x. 2Sb 24:19, Gr 7,25, v.v.) đều đã được Thiên Chúa “sai đi.” Chính Ðức Giêsu đã áp dụng cho mình những lời trong Is 61,1 để diễn tả sứ vụ của Người (x. Lc 4,18). Khi huấn luyện các môn đệ, Ðức Giêsu cũng đã “sai” 12 môn đệ “đi” (x. Mc 3,13-19); chính vì thế mà các ông được gọi là tông đồ.
Trong tiếng Hylạp, apóstolos có nghĩa là “người được sai đi,” giống như missionarius trong tiếng Latinh. Phúc âm Gioan thường giới thiệu Ðức Giêsu như là Ðấng Chúa Cha sai đi/đến; và sau khi sống lại, chính Người sai các môn đồ đi như Cha đã sai Người, nghĩa là trao phó sứ vụ của Người cho các tông đồ, cho Giáo Hội (x. Ga 20,21). Do đó, toàn bộ sứ vụ của Giáo Hội là việc được sai đi và không ngừng được sai đi.
Từ thế kỷ 16, từ missio đã bắt đầu mang ý nghĩa chỉ về việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ngoài Giáo Hội. Sau đó, Thánh bộ Propaganda Fide đã nhận missio theo nghĩa vừa nói, làm đối tượng và mục đích của mình.
Khi Truyền giáo học xuất hiện, những định nghĩa về từ missio đã được nêu lên. Tuy nhiên, nhiều người lại không đồng ý với nhau. Cả các thành viên Uỷ ban về truyền giáo trong Công Đồng Vaticanô II cũng không nhất trí về những cách thức định nghĩa:
Theo Giáo Luật, từ missio có những ý nghĩa sau:
(1) Sứ vụ hoặc sứ mạng của Giáo Hội nói chung, bao gồm tất cả những việc Giáo Hội có bổn phận chu toàn (x. GL 114, 794), hoặc mục đích cụ thể của một người hoặc một tổ chức (x. GL 801).
(2) Một giáo khu, một lãnh địa, nơi các thừa sai rao giảng Tin Mừng, hoặc đơn thuần là vùng đất thuộc Thánh bộ Truyền giáo (x. GL 790 và AG 29b).
(3) Một sứ vụ hoặc công cuộc tông đồ giữa dân ngoại với tất cả những gì đi kèm theo (x. GL 791).
(4) Một hoạt động đặc thù hiểu theo cách định nghĩa của Vaticanô II: “là ‘việc truyền giáo’ tất cả những công cuộc đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc Âm, được Giáo Hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm và ‘vun trồng’ Giáo Hội nơi các dân tộc, cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa Kitô.” (AG 6c)
(5) “Hoạt động truyền giáo chính danh, qua đó Giáo Hội đâm rễ vào giữa lòng các dân nước hay các chủng tộc, là hoạt động tiến hành chủ yếu qua việc Giáo Hội phái gửi những người ra đi rao giảng Phúc Âm và như thế cho đến khi các tân Giáo Hội được thiết lập toàn vẹn, nghĩa là có đủ nhân lực riêng và phương tiện đầy đủ để tự mình thực hiện công cuộc truyền bá Phúc Âm.” (GL 786).
(5) Ủy nhiệm (missio canonica), tức quyền nhận được để có thể thi hành thừa sứ vụ Lời Chúa, hoặc để thi hành quyền trong Giáo Hội. Bộ Giáo Luật mới không còn dùng từ này; hiện nay, ý niệm này được biểu đạt bằng từ mandatum.
Sắc Lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes) dùng từ missio theo nghĩa rộng từ số 1-5. Từ số 6 trở đi, lại bàn về missio theo nghĩa hẹp, tức đề cập đến việc truyền giáo cho những người ngoài Kitô giáo. Ðể tránh gây ngộ nhận, Ðức Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Sứ Mệnh Ðấng Cứu Ðộ, đã dùng từ “missio ad gentes.”
2/ missionarius, missioner, missionary
CĐ Vaticanô II đã dành trọn chương 4 của Sắc lệnh Truyền Giáo để nói về các tác viên của missio, là các nhà thừa sai. Theo Giáo Luật: “Các nhà thừa sai – những người được thẩm quyền Giáo Hội phái đi làm việc truyền giáo – có thể được tuyển chọn từ các người bản xứ hay không phải bản xứ, hoặc từ các giáo sĩ triều, hoặc từ các phần tử thuộc Hội Dòng tận hiến hay Tu Đoàn tông đồ, hoặc từ các giáo dân.” (GL 784). Cần chú ý là Giáo Luật đã không đề cập đến yếu tố địa lý (“missions étrangères”) như phải đi xa, đi đến với các dân tộc khác, v.v. Vì thế, có thể là thừa sai ngay tại nhà, tại quê hương đất nước của mình.
Vì truyền giảng Tin Mừng cứu độ là việc trọng yếu, đến từ trên và phải được chu toàn với một số điều kiện, nên không ai có thể tự sai phái mình đi, mà phải nhận sứ vụ ấy từ người có thẩm quyền trong Giáo Hội (có thể là qua Hội Dòng, chẳng hạn).
Chính Ðức Kitô đã được Chúa Cha sai đến, chứ không phải tự mình mà đến (x. Dt 5,5). Rồi chính Người đã sai các tông đồ đi. Có thể có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, để trở thành thừa sai thì phải được sai phái, tức là nhận được sứ mệnh, một sứ mệnh không phải tự mình đặt ra cho mình, nhưng là của Ðức Kitô và Giáo Hội.
3/ “xứ truyền giáo” (terre de mission) (x. GL 790)
Được gọi là “xứ truyền giáo” gồm những vùng đất chưa có Giáo Hội riêng, hoặc vì số tín hữu còn quá ít hoặc số giáo sĩ còn quá thiếu, v.v. (x. AG 38, 41). Thường các vùng đất này thuộc thẩm quyền của Bộ Truyền Giáo. Đó là những nơi chưa có Giáo Hội địa phương với hàng giáo phẩm và những cơ cấu đầy đủ, hoặc dù đã có, nhưng đại đa số người chưa tin vào Chúa Kitô. Hiện nay, thuật ngữ này ít được dùng, bởi tình trạng đa tôn giáo đang lan rộng hầu như khắp nơi.
4/ “truyền bá Phúc Âm” [loan báo Tin Mừng, truyền giảng Tin Mừng, phúc âm hóa] (evangelization).
Một số người cho đó là một ý niệm không rõ ràng. Vì từ này có khi muốn chỉ về “việc tông đồ” nói chung (x. GL 298, 843); có khi thì lại đồng nghĩa với “truyền giáo” (x. GL 781, 786). Từ này phát nguyên từ chữ evangelium (Phúc Âm), và tiếng Việt thường dịch là “phúc âm hóa.” Ý niệm này xuất phát từ Kinh Thánh, với ý nghĩa chung là loan báo Tin Mừng (x. Lc 1,19; 2,10; 4,18, v.v.). Có khi người ngoài Kitô giáo dùng từ evangelization theo nghĩa là giảng đạo hoặc truyền nói chung.[2]
“Tin Mừng” có thể là việc Ðấng Mêsia đến (x. Lc 2,10), Nước Thiên Chúa đến (x. Lc 4,43; 16,16), hoặc niềm mong đợi của dân đã được toại nguyện (x. Lc 4,18; 7:22; 9:6, v.v.). Sau Phục sinh, “Tin Mừng” là Chúa Kitô đang sống, đã lên trời, đang hành động như Ðấng Cứu thế của muôn dân, v.v. Chính Người là nội dung của Tin Mừng (x. Cv 5:42).
Danh từ tin mừng (evangelium, Gospel) bao gồm toàn bộ biến cố Ðức Kitô với trọn ý nghĩa cứu độ của nó. Do đó, truyền giảng Tin Mừng hoặc loan truyền Tin Mừng có nghĩa là làm cho người ta biết Ðức Kitô, thuyết phục họ theo Người, mở rộng cộng đồng các môn đệ, v.v. (x. Rm 1,1; 1Cr 1,17; Gl 1,6.7.11). Trong lịch sử, công bố Phúc Âm (evangelizare, evangelize) là mục đích của Giáo Hội: “Sở dĩ có Giáo Hội là để công bố Phúc Âm” (Evangelii Nuntiandi – EN – 14). Vốn có gốc Tin lành (thế kỷ 19), thuật ngữ evangelization đã được Ðức Phaolô VI phổ biến giữa giới Công giáo qua Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi, năm 1975).
Ðể xác định ý nghĩa của khái niệm bao quát ấy, thần học phân biệt ba dạng rao giảng Tin Mừng (evangelization):
(1) Rao giảng Tin Mừng lần đầu (prima evangelizatio, first evangelization) trong một vùng đất, một lãnh vực văn hóa, một dân tộc, v.v., chưa bao giờ đón nhận Tin Mừng.
(2) Rao giảng Tin Mừng lần thứ hai (secunda evangelizatio, second evangelization) trong một môi trường đã từng là Kitô giáo, nhưng nay đã mất đức tin, không còn thuộc về cộng đoàn Giáo Hội.
(3) Rao giảng Tin Mừng theo một cách thức mới, hoặc là rao giảng lại một lần nữa, hoặc là cả hai (thuật ngữ new evangelization được ĐGH Gioan Phaolô II dùng trong dịp Năm Thánh 2000).
5/ “pre-evangelization” tức “tiền-phúc âm hóa” là công việc hoặc giai đoạn chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng. Nhiều tác giả đã không đồng ý với ý niệm này. CĐ Vaticanô II đã không dùng từ này.
6/ “đối thoại liên tôn”
Đây là một ý niệm tương đối mới. CĐ Vaticanô II đã khuyến khích Giáo Hội nói chung xây dựng mối giao hảo với mọi người, đặc biệt là với những tín đồ thuộc các tôn giáo khác “bằng con đường đối thoại và hợp tác” (NK 2). Giáo Luật 787, cũng nhắn nhủ các thừa sai lưu ý đến điều này. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhiều lần nhấn mạnh đến điểm này(x. số 856). Thần học Á Châu đã đặc biệt khai triển rộng rãi và tiến hành công việc này.
7/ “phát triển”
Phát triển có quan hệ chặt chẽ với công cuộc truyền giáo, nhất là qua hoạt động giáo dục của Giáo Hội. Trong thập niên 1970, thời thịnh của thần học giải phóng, có tác giả đã cho rằng công cuộc truyền giáo và công việc phát triển là hai hoạt động đối nghịch nhau.
8/ “hội nhập văn hóa”
Hội nhập văn hóa là điểm đặc biệt quan trọng tại Châu Á và Châu Phi. Ngay từ lúc mới khai sinh, Kitô giáo đã bắt tay vào công việc này, nghĩa là đã tiến hành nỗ lực bản xứ hóa ở khắp nơi. Nhưng suy tư về mối tương quan giữa Phúc Âm và văn hóa cũng như về tiến trình “hội nhập văn hóa” là điều mới. Các văn kiện của CĐ Vaticanô II cũng như bộ Giáo Luật không biết đến từ này, và Giáo Lý Hội Thánh Công giáo cũng chỉ ám chỉ tới từ này có một lần (x. số 854). Thế nhưng, hiện nay, trong Truyền giáo học, không một chủ đề nào được khai triển nhiều, qua các bài viết và sách vở, cho bằng chủ đề này. Ðức Gioan Phaolô II coi việc hội nhập văn hóa là “sự biến đổi sâu xa của các giá trị văn hóa đích thực một khi được sáp nhập vào Kitô giáo, và là việc Kitô giáo hòa nhập vào một nền văn hóa cụ thể.” ( Redemptor Hominis, 52).
NGƯỜI CÔNG GIÁO GIỮA THẾ GIỚI NGÀY NAY
Hai mươi thế kỷ sau Phục sinh, sứ mệnh Ðức Kitô phó thác cho các tông đồ vẫn chưa hoàn tất. Lệnh truyền “làm cho muôn dân trở nên môn đệ” đã có kết quả tích cực ở một phần thế giới, song lại xem ra thất bại ở một số nơi khác, chẳng hạn tại Châu Á.
Theo thống kê và dự đoán do International Bulletin thực hiện năm 1999,[3] tỷ lệ của người công giáo dần giảm sút đi. Điều này khiến chúng ta phải âu lo và nhận thấy tầm quan trọng cũng như tính khẩn thiết của việc truyền giáo.
Dự tính đến năm 2025:
Dân số thế giới: 8.039.130.000
Công giáo: 1.376.282.000
Hồi giáo: 1.894.436.000
Ấn giáo: 1.020.666.000
Riêng tại Châu Á, thống kê năm 1997 cho thấy một tình trạng hết sức bi đát.
Dân số Châu Á: 3.562.142.000
Công giáo: 105.294.000 (3%)
Thống kê năm 2012:
* Dân số thế giới : 6.848.550.000 người
Công giáo : 1.195.671.000 người (17,46%) * Châu Á: 4.155.096.000
Số tín hữu : 129.661.000 (3,12 %)
Tại Châu Âu và Bắc Mỹ có vẻ như số Kitô hữu đông, nhưng thật ra đa số không sống đạo. Số người vô thần hoặc vô tôn giáo rất lớn. Tuy nhiên, tại “thế giới thứ ba,” những vùng đất có “nhiều tôn giáo nhất,” vẫn có những hiện tượng có thể ảnh hưởng đến lãnh vực truyền giáo, đặc biệt là đô thị hóa và toàn cầu hóa.
đô thỊ hóa
Trong tương lai gần, đa số dân thế giới, kể cả người Châu Á và Châu Phi, rồi sẽ sinh sống và hoạt động ở trong các đô thị lớn.
Vào khoảng năm 2025, phân nửa thế giới sẽ sống ở thành phố. Hiện tượng này đặt ra nhiều vấn đề về mọi phương diện.
Ðối với việc truyền giáo, nên lưu ý điểm này là Kitô giáo đã bắt đầu ở trong các đô thị. Các tông đồ – nhất là Phaolô – đã chọn các thành phố để rao giảng Tin Mừng.
Do đó, Giáo Hội cần phải chuẩn bị thừa sai đặc biệt cho các đô thị. Đại đa số số dân chúng đang sống trong một tâm trạng âu lo, vì đã đánh mất đi những truyền thống cổ truyền từng đóng góp để giữ vững trật tự xã hội và tôn giáo qua bao nhiêu thế kỷ. Trong các đô thị, họ phải sống cô đơn, vô danh, bơ vơ. Về mặt luân lý, dễ bị lôi cuốn vào những thói hư tật xấu, nhưng cũng dễ mở ra cho hướng đi mới về phía tín ngưỡng tôn giáo. Giáo Hội có thể cống hiến cho họ, cho hàng triệu người, một “gia đình” thiêng liêng, một căn tính mới, cả tâm lý lẫn tôn giáo.
Trong môi trường vô danh nơi các đô thị, Kitô giáo phải suy nghĩ lại kỹ về cách tổ chức cộng đoàn Giáo Hội làm sao để các tín hữu tìm được cơ hội sống đạo theo một cung cách mới, giữa những đoàn nhóm thật sự thân tình, ưu ái, có khả năng đón nhận thành phần mới và dẫn đưa họ vào đời sống đức tin, chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện, tương trợ, v.v. Các cộng đoàn cơ bản có thể đóng một vai trò hết sức tính cực và hữu hiệu trong lãnh vực mục vụ đô thị mai ngày.
toàn cẦu hóa
Hiện tượng toàn cầu hóa, đặc biệt về kinh tế và văn hóa, đã và đang ảnh hưởng đến mọi quốc gia. Hiện tượng này kéo theo những hậu quả khó khăn về mặt tôn giáo. Đa số các nước có nhiều tín ngưỡng khác nhau đều sống chung với nhau, trong một bầu khí khoan dung và tự do. Có người còn gợi lên hình ảnh “siêu thị tôn giáo.” Vì thế, thật khó để nói về “tôn giáo thật.”
Tình trạng này gây nên những phản ứng khác nhau. Nhiều người lo sợ sẽ đánh mất căn tính và chủ trương bênh vực và bảo vệ đặc nét của dân tộc mình, của nền văn hóa mình, v.v. Từ đó, họ một mực từ chối tất cả những gì là “ngoại lai” và chủ trương theo đuổi những chủ nghĩa dân tộc hoặc tôn giáo.
Về mặt truyền giáo, tình trạng này đặt ra một thách đố lớn. Kitô giáo hiện phải đương đầu với thái độ coi mọi giá trị đều là tương đối, tôn giáo nào cũng đều tốt. Trong bối cảnh này, Ðức Kitô xuất hiện chỉ như là một giữa các vị sáng lập tôn giáo. Nếu phải so sánh, thì theo con mắt loài người, Kitô giáo và các Kitô hữu chưa chắc đã xuất sắc hơn và tốt hơn các tôn giáo khác và các tín đồ của họ.
Ðể làm thừa sai trong thời nay, không phải chỉ cần được đào tạo cho chu đáo hơn mà thôi, nhưng nhất là còn cần phải trở nên thánh thiện hơn, để có thể qua cuộc sống của mình, làm chứng cho Tin Mừng mình rao giảng. Do đó, hơn bao giờ hết, bây giờ là lúc giáo lý và đời sống, lý tưởng và thực tế phải thực sự đi đối với nhau.
trao đỔi thỪa SAI
Trước kia, thường nghe nói các “nước Kitô giáo” gởi thừa sai đến các “vùng đất truyền giáo.” Bây giờ tình trạng đã thay đổi nhiều. Các Giáo Hội Châu Âu hiện đang phái gửi nhiều thừa tác viên đi truyền giáo, lại đang thiếu ơn gọi trầm trọng. Vì thế, trong tương lai, sẽ không còn hay còn rất ít người đến truyền giáo tại nước ngoài. Dù vậy, mỗi lục địa (Giáo Hội địa phương) đều phải gởi và đón nhận thừa sai. Các “Giáo Hội trẻ” sẽ phải đảm nhận nhiều hơn công cuộc truyền giáo.
nhỮng khuynh hưỚng mỚi trong thẦn hỌc truyỀn giáo
Sau CĐ Vaticanô II, các ngành thần học đã sôi nổi đề xuất những giả thuyết mới về hết mọi khía cạnh của Giáo Hội, cả về trí thức lẫn thực tiễn. Riêng Truyền giáo học, do chịu ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng xảy ra trong quan niệm đối với hoạt động truyền giáo, nên thần học đã đề xuất nhiều luận đề mâu thuẫn với nhau, xuất xứ từ nhiều chủ trương rất khác nhau: từ những nhóm bảo thủ tuyệt đối không muốn đổi thay gì cả, đến những người chủ trương phải ngưng hẳn hoạt động truyền giáo.
Trước tình cảnh ấy, các nhà truyền giáo học đã ra sức giải đáp các vấn nạn do khủng hoảng đặt ra và phối hòa nhiều yếu tố suy tư xem ra mâu thuẫn (chẳng hạn, truyền giáo và đối thoại). Rất nhiều sách vở đề cập đến vấn đề này. Giáo Hội Công giáo đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và đã chính thức lên tiếng.
1/ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (1975). “Truyền giáo” đã được chọn làm chủ đề cho Khóa họp năm 1974 của Thượng Hội Ðồng Giám Mục, do Ðức Phaolô VI thiết lập (1965). Kết quả là Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (1975) đã ra đời. Đây là văn kiện quan trọng nhất của Đức Phaolô VI liên quan đến truyền giáo. Tông Huấn này đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến các nỗ lực suy tư công giáo về sứ mệnh truyền giáo.
Thông Điệp Populorum Progressio (1967) đã đưa toàn thể Giáo Hội dấn thân vào công cuộc phát triển vốn được coi là “tên gọi mới của hòa bình.” Thông điệp này ảnh hưởng đến tư tưởng về truyền giáo.
Thông Điệp Ecclesiam Suam (1964) đề cập đến chủ đề “đối thoại” và nhấn mạnh đến nhiệm vụ số một của Giáo Hội là rao giảng Lời Chúa.
2/ Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Thông điệp Slavorum Apostoli (1985) đề cao công cuộc truyền giáo mẫu mực của hai thánh Cyrillô và Mêthôđiô cho các dân tộc Slave.
Thông điệp Dominum et Vivificantem (về Chúa Thánh Thần) (1986) khai triển thần học về Thần Khí và về thời đại của Giáo Hội, tức về giai đoạn truyền giáo trong lịch sử cứu độ.
Thông điệp Redemptoris Missio (1990) là một tập luận thuyết hoàn chỉnh về Truyền giáo học.
Thông điệpUt unum sint (1995) coi đại kết là điều kiện thiết yếu cho công cuộc truyền giáo (x. số 98).
Ngoài ra, trong các Tông huấn ban bố sau các hội nghị của mỗi lục địa, ngài luôn nhắc đến công cuộc “tân phúc-âm-hóa,” đặc biệt là trong các Tông huấn Ecclesia in Africa (1995), Ecclesia in Asia (1999) cũng như trong Tông huấn về Châu Mỹ (1999). Công cuộc truyền giáo còn được trực tiếp đề cập đến dưới ánh sáng giáo lý và thần học, trong nhiều văn kiện khác của Ngài.
3/ Thần Khí trong sứ mệnh truyền giáo
Các văn kiện chính thức của huấn quyền cũng như thần học đều nhất trí nêu bật vai trò của Thần Khí trong sứ mệnh này. Nhưng dựa vào sự kiện này, một số tác giả lại phê bình điều họ gọi là ý niệm “quy-Kitô” trong cách hiểu về sứ mệnh truyền giáo và khai triển một ý niệm khác, đó là ý niệm “quy-Thần Khí.” Từ đó dẫn đến việc không còn coi Giáo Hội là mục đích của sứ vụ truyền giáo, mà thay vào đó là lấy “vương quốc” là mục đích. Hậu quả là, một đàng, ý niệm “rao giảng Tin Mừng” trở nên quá mập mờ; đàng khác, nhiều người không còn làm công việc truyền giáo nữa, mà chỉ lo cho mọi người trở nên tốt hơn trong tôn giáo (hay trong quan niệm sống, có khi là vô tôn giáo) của họ.
Vì thế, để điều chỉnh khuynh hướng này, Thông điệp Redemptoris Missio đã dành hai chương II và III để bàn về “Vương quốc” và về “Thần Khí.” Chính chiều kích Thần Khí đã mở rộng chân trời của Giáo Hội và làm cho sứ mệnh của Giáo Hội thêm phong phú hơn. Một thành quả tích cực khác là thái độ lạc quan đối với các thực tại trần thế, nói chung, và đối với các tôn giáo, nói riêng. Cả hai yếu tố đã hòa nhập vào ý niệm về mission hay evangelization, tức vào trong sứ mệnh của Giáo Hội, một mặt nhờ ảnh hưởng đặc biệt của Dòng Tên qua nỗ lực đẩy mạnh công cuộc promotio justitiae, tức là cổ vũ công bằng xã hội, mặt khác, nhờ công cuộc đối thoại liên tôn.
Ngoài ra, Tòa Thánh đã thiết lập những Hội Đồng Tông Tòa (Pontifical Councils) để phối hợp các hoạt động liên quan đến các tôn giáo (đối thoại) và các hoạt động từ thiện, phát triển (Cor Unum, Justice and Peace, v.v.).
4/ Đại kết
Thực ra, phong trào đại kết (hiệp nhất) là con đẻ của sứ vụ truyền giáo. CĐ Vaticanô II đã lồng mối quan tâm đại kết vào trong các văn kiện và trào lưu tư tưởng chính do CĐ khơi dậy. Riêng trong lãnh vực Truyền giáo học, khó mà phân biệt được giữa thần học Tin lành và thần học Công giáo, vì hai bên không ngừng trao đổi tư tưởng về sứ vụ chung này và ra sức hợp tác trong nỗ lực rao giảng Tin Mừng, dù vẫn còn phải tiến thêm nhiều hơn nữa trên con đường đại kết.
LIÊN HIỆP CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU (FABC) VÀ SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO
FABC (Taipei, 1974) đã chọn “Công cuộc rao giảng Tin Mừng và Châu Á ngày nay” làm chủ đề. Các văn kiện của FABC đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ truyền giáo của Giáo Hội.
Năm 1993, FABC, về truyền giáo, đã bàn thảo về đề tài “Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô,” và trong lần họp năm 2000, trung thành với tinh thần ấy, FABC đã khẳng quyết rõ hơn nữa về bổn phận truyền giáo. Ý niệm về sứ vụ này đã mở rộng: không chỉ là loan báo Tin Mừng hoặc dạy giáo lý hay là thiết lập Giáo Hội, v.v., mà còn cho thấy “Giáo Hội có bổn phận loan báo sự giải phóng cho hàng triệu người, có bổn phận góp phần vào cuộc giải phóng ấy, làm chứng cho nó và làm cho nó thành tựu chắc chắn.” (EN 30).
“Giải phóng” muốn nói ở đây là loại bỏ nghèo đói, mù chữ, bệnh tật, tham nhũng, hối lộ, và mọi thứ áp bức. Sứ mệnh của Giáo Hội có quan hệ đến tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sáng tạo của Chúa Cha, trong công trình cứu chuộc của Chúa Con, và trong cuộc đổi mới muôn vật do Thánh Thần thực hiện.
Cần ý thức về tính cách “toàn cầu” của công cuộc truyền giáo, nghĩa là cần phải rao giảng Tin Mừng ở khắp nơi, trong mọi nước, vì ở khắp nơi còn có những nhóm người chưa bao giờ nghe biết về Ðức Kitô.
Vì thế, phải coi việc sai phái các thừa sai là một việc làm hai chiều, mang tính qua lại: mọi Giáo Hội đều sai phái và đều đón nhận thừa sai, nghĩa là mọi Giáo Hội địa phương đều phải đặt mình vào trong “tình trạng truyền giáo.”
Ngay từ phiên họp đầu tiên (1974), FABC đã chọn việc “Rao giảng Tin Mừng tại Châu Á ngày nay” làm chủ đề, và đã nhấn mạnh đến việc cần phải mặc tính á đông cho công cuộc truyền giáo tại Châu Á, nghĩa là cần phải đối thoại với người nghèo, với các nền văn hóa và với các tôn giáo bạn. Vì thế, FABC đã thiết lập các văn phòng đặc nhiệm là BISA, BIMA và BIRA, để đặc trách về các hoạt động xã hội, truyền giáo và cho công cuộc đối thoại liên tôn. Cứ bốn năm một lần, các tổ chức này nhóm họp, bàn luận về một đề tài và đề xuất một văn kiện tổng kết. Nếu thu tập các tài liệu này lại thì sẽ có được một bộ giáo lý phong phú về Truyền giáo học. Hiện có gần một 100 tài liệu (papers) của FABC, gồm những bài viết của các chuyên gia về hầu hết mọi khía cạnh trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Một điểm nổi bật là Giáo Hội Á Châu không ngừng tự nhắc nhủ là mình có nhiệm vụ không thể lẩn tránh được đối với việc rao giảng Tin Mừng cho đồng bào chưa được nghe biết về Ðức Kitô, hoặc chưa hưởng được ơn cứu độ toàn vẹn trong Giáo Hội.
Tất cả các tín hữu tại Châu Á sẽ hăng say xả thân vào việc truyền giáo để thể hiện lòng biết ơn đối với Cha Cả trên trời và tình mến đối với đồng bào của mình, bởi xác tín rằng Tin Mừng chính là men giải phóng, chính là sức năng động biến đổi xã hội.
Không ai – nhất là các giám mục – lại không ý thức về ưu tiên hàng đầu và tính chất khẩn cấp của sứ vụ truyền giáo. Nhưng vấn đề là cần phải tìm cho ra phương pháp mới để truyền đạt Tin Mừng, bởi xem ra các phương pháp cổ truyền không còn mang lại được hiệu năng thích đáng. Ðể có thể tìm thấy được một “kiểu á đông” trong phương cách truyền giáo, các Giáo Hội địa phương phải được bản xứ hóa thật sự.
Năm 1970, nhân dịp Ðức Phaolô VI viếng thăm Phi luật Tân, 180 giám mục từ khắp nơi tại Châu Á đã nhóm họp tại Manila và đã khởi động sự hợp tác bằng việc cùng nắm tay hợp tác với nhau. Các ngài đã đề xuất một văn kiện, trong đó quyết định số 13 dứt khoát lên tiếng ủng hộ việc xây dựng “một nền thần học bản xứ để nhờ đó, sinh hoạt Kitô và sứ điệp Tin Mừng nhập thể ngày càng ăn sâu hơn vào trong các nền văn hóa cổ truyền phong phú của Châu Á.” Sau đó, tất cả các văn kiện của FABC và của các văn phòng đặc nhiệm đều, bằng cách này hay cách khác, nhắc đến công cuộc “hội nhập văn hóa.”
Ðại hội lần thứ 7 (3-13/1/2000) của FABC kết luận rằng “Chứng tá đời sống đã và bao giờ cũng là phương thế Phúc âm hóa và phục vụ hữu hiệu nhất.” Cần phải cổ vũ những giá trị thuần túy Á đông như tinh thần chiêm niệm, thái độ coi trọng sự sống hơn lý thuyết và đối xử thuận hòa với mọi người, lòng cảm thương đối với người dân khốn khổ, thái độ tôn trọng thiên nhiên.
Về mặt đối ngoại (truyền giáo chẳng hạn), Giáo Hội Á Châu nêu bật phương cách á đông, đặc biệt là làm chứng bằng đời sống và đối thoại với các thực tại xã hội: người nghèo, các nền văn hóa và tôn giáo, vì Châu Á là quê hương của nhiều nền văn hóa cổ kính và phong phú, của những tôn giáo lớn và sống động, và cũng là nơi có người nghèo nhiều nhất trong thế giới.
Hơn tại bất cứ lục địa nào khác, tại Châu Á, Giáo Hội hiện đang phải đối diện với một nhu cầu hết sức to lớn và bức thiết: nhu cầu đối thoại liên tôn. Ðể tiến hành công cuộc ấy, FABC dựa vào nguyên tắc thần học: Thần Khí hằng hoạt động khắp mọi nơi, trong mọi lương tâm và nơi mọi tôn giáo.
Mặt khác, nhìn thực tại với óc thực tế và thường xuyên sống đối diện với các tôn giáo khác, Giáo Hội Á Châu phải chọn lối hoạt động kép: một đàng, hợp tác với các tôn giáo bạn trong nỗ lực nâng đỡ và xoa dịu mọi thứ khổ đau; đàng khác, kiên trì trao đổi với các tôn giáo về nguồn cứu độ phổ quát cho toàn thể nhân loại, coi đó là đối tượng nhắm đến khi loan báo Ðức Kitô.
Tương lai truyền giáo rồi sẽ cam go hơn vì phải đương đầu với tình trạng “tranh đua,” bởi các tôn giáo Châu Á cũng có những phương thức riêng và rất tích cực trong việc truyền đạo.
NGƯỜI TRUYỀN GIÁO
“Bởi bản tính, ơn gọi thừa sai phát sinh từ ơn gọi nên thánh. Một thừa sai chỉ đích thực là thừa sai nếu biết cố gắng tiến bước trên đường thánh thiện. Thánh thiện là điều kiện tiên quyết, cơ bản và không thay thế được để thực hiện sứ mạng cứu độ của Giáo hội. Ơn gọi phổ quát để nên thánh có quan hệ chặt chẽ với ơn gọi thừa sai… Linh đạo truyền giáo của Giáo hội là một đường lối dẫn đến thánh thiện. Nhiệt huyết truyền giáo cho lương dân đòi hỏi phải có những thừa sai thánh... Vì thế, cần phải gợi lên giữa các thừa sai và trong toàn cộng đồng kitô một lòng hăm hở mới, hăm hở nên thánh.” (RM 90).
“Các thừa sai phải suy nghĩ về bổn phận nên thánh mà ơn gọi của họ đòi hỏi, phải không ngừng cải thiện tinh thần, cùng canh tân kiến thức về giáo lý và mục vụ. Thừa sai phải là người ‘chiêm niệm giữa hoạt động, nhất là tại Châu Á, thừa sai mà không phải là người chiêm niệm thì không thể loan báo Ðức Kitô cho đáng tin được. Thừa sai là chứng tá về kinh nghiệm Thiên Chúa, và phải có thể nói như các Tông đồ: ‘Ðiều chúng tôi đã chiêm ngưỡng... về Lời sự sống... thì chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa’.” (1Ga 1:1-3 (RM 91).
“Truyền giáo là hoạt động trong chiêm niệm và là chiêm niệm giữa hoạt động. Do đó, đi truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua cầu nguyện và chiêm niệm, thì ảnh hưởng được rất ít về mặt thiêng liêng, hoặc chẳng thành công được bao nhiêu về mặt truyền giáo.” (Ecclesia in Asia, 23).
“Tinh thần truyền giáo” là động cơ của mọi hoạt động truyền giáo, là lòng “khát khao phần rỗi các linh hồn,” coi việc mở rộng Nước Chúa là “điều cần thiết duy nhất” và sẵn sàng bỏ mọi sự vì mục đích ấy. Ðồng thời, phải có cái nhìn rộng lớn bao trùm toàn bộ kế hoạch cứu độ và nhìn việc riêng của cá nhân mình trong nhãn giới ấy.
Tinh thần này kết tinh trong linh đạo truyền giáo, tức linh đạo đặc thù của người thừa sai (x. AG 23-25, 29; EN 75-82; RM 87-92). Đó là người “sống trong Thần Khí” (Rm 8:4.9), “tiến bước nhờ Thần Khí” (Gl 5:25), hoặc là để Thần Khí dẫn dắt mình (x. Lc 4:1.14.18; 10:21; Cv 10:38, v.v.).[9]
Thừa sai phải là người của Thần Khí, Tác nhân chính yếu của sứ mệnh truyền giáo (x. RM 21tt). Do đó, thừa sai cần phải ý thức đặc biệt đến việc Thần Khí đang hiện diện nơi chính mình, đang hoạt động nơi mọi người, cũng như đang tác động trên văn hoá và lịch sử để hướng tất cả về với Ðức Kitô. Thừa sai phải để Thần Khí xức dầu và dẫn dắt như Ðức Giêsu (x. Lc 4:18-19).
Người thừa sai phải luôn đặt mình trong tư thế truyền giáo, phải cố gắng làm sao để thực sự trở nên “người của Thiên Chúa”, trở thành hình ảnh và là hiện thân của Ðức Kitô giữa trần gián. Có thế mới có thể thu hút được nhiều người đến với sứ điệp Tin Mừng, tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ trần gian.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Anh chị có suy nghĩ gì về việc truyền giáo tại Việt Nam? Nên có một số anh chị dấn thân vào việc truyền giáo cho người ngoài Kitô giáo (missio ad gentes) như những nhà thừa sai chính danh không?
Hiện nay, rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đến sinh sống và làm ăn tại các đô thị. Vào khoảng năm 2025, theo dự đoán, phân nửa số người trên thế giới sẽ sống ở các thành phố. Anh chị có suy nghĩ gì về điều này? Anh chị có thể làm gì và làm như thế nào để ‘truyền giáo’cho những người này?
Hợp tác với các tôn giáo bạn trong nỗ lực nâng đỡ và xoa dịu mọi thứ khổ đau và kiên trì trao đổi với các tôn giáo về nguồn cứu độ phổ quát cho toàn thể nhân loại, coi đó là đối tượng nhắm đến khi loan báo Ðức Kitô. Anh chị có thể làm được việc này không? Nếu có, thì nên chuẩn bị và tiến hành như thế nào?
Nguồn: David B. Barrett and Todd M. Johnson, “Status of Global Mission in the Context of 20th and 21st Centuries,” in International Bulletin, January 1999.
Yves M. Raguin, “I am sending You” Spirituality for the Missionary, Manila: EAPI 1973; Takeo Okada, P., The Missionary Spirituality of the Incarnation According to the Teaching of Paul VI, Roma: Pont.Univ.Greg. 1978; Esquerda-Bifet, J., Spirituality for a Missionary Church, Roma: Urbaniana Press 1994.