Trang Chủ > Suy Niệm > Mùa Vọng > Tuần 3

Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh
Ngày 17 tháng 12 năm 2013

Gia Phả Đức Giê-su Ki-tô
Mt 1, 1-17

tm.jpgLời Chúa trong trong những tuần vừa qua của Mùa Vọng chắc chắn đã khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát hiểu biết Đức Ki-tô sâu xa hơn, vì Ngôi Vị của Ngài là mầu nhiệm khôn cùng và vì sự hiểu biết Đức Ki-tô, theo thánh Phao-lô, là quí giá nhất : « Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi » (Phil 3, 7). Và chắc chắn chúng ta đã có kinh nghiệm và cảm nếm về sự quí giá này rồi trong hành trình đức tin và ơn gọi của chúng ta.

Nhưng để tìm hiểu Đức Ki-tô, chúng ta nên bắt đầu từ đâu và giai đoạn nào ? Cũng tương tự như tìm hiểu một người, chúng ta phải trở về « nguồn gốc » của Ngài. Nói về nguồn gốc, chúng ta nghĩ ngay đến hành trình từ trời xuống thế, nghĩa là nguồn gốc theo chiều dọc trực tiếp từ Thiên Chúa, như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : « Người đã từ trời xuống thế ». Nhưng các Tin Mừng trình bày cho chúng ta một nguồn gốc khác, theo chiều ngang, đó là bản gia phả, hay nguồn gốc của Đức Ki-tô, vì Ngài cũng là Con của Con Người, như sau này Ngài thích tự xưng như thế, và nhất là Ngài có sứ mạng « mang lấy các bệnh hoạn tật nguyền » của loài người và của từng người chúng ta. Và ở chiều kích nhân loại, Thiên Chúa cũng vẫn là ngọn nguồn, bởi vì loài người xuất phát từ Adam và Adam là con Thiên Chúa (Lc 3, 38).

 

 

Thiên Chúa
(Mc và Ga)

â

Thiên Chúa à

Adam và Eva à

Abraham à

Đa-vít à

Đức Giê-su Ki-tô

Lc 3, 23-38

â

Mt 1, 1-17

Loài người

Israel : Dân Tộc được Thiên Chúa tuyển chọn

Tôi và dân tộc tôi : cùng nguồn gốc với Israel ; Israel được tuyển chọn để chia sẻ ; cách Thiên Chúa yêu thương Israel là cách Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc và mọi người.

 

Đức Ki-tô vừa có nguồn gốc trực tiếp từ Thiên Chúa, vừa có nguồn gốc từ một dân tộc như chúng ta, và vừa có cùng nguồn gốc với chúng ta. Giống như mỗi người chúng ta : vừa thuộc về một dân tộc, vừa thuộc về loài người, được Thiên Chúa tạo dựng. Tại sao Đức Ki-tô có hai nguồn gốc ? Đó là để mang lấy, đem lại ý nghĩa và dẫn tới hoàn tất, với tư cách – và chỉ có thể với tư cách này – là Ngôi Lời Thiên Chúa, được sinh ra từ thủa đời đời.

*  *  *

Bản gia phả, dịch sát nghĩa là « cuốn sách về nguồn gốc » : « Gia phả của Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít, con tổ phụ Abraham ». Một bản gia phả luôn luôn là khô khan, xa lạ và đều đặn (theo nghĩa là người này sinh ra người kia). Nhưng nếu chúng ta chịu khó dừng lại để suy niệm, chúng ta sẽ khám phá cả một lịch sử sống động ở bên dưới hàng chuỗi những tên gọi, thậm chí cưu mang những tên gọi. Khi đó, chúng thấy mình thật gần gũi và có thể cảm nếm được ; bởi vì, Đức Ki-tô cũng phát xuất từ một lịch sử đầy thăng trầm như chúng ta và còn hơn thế nữa cùng « nguồn gốc » với chúng ta : Đức Ki-tô là con Adam, và Adam là con Thiên Chúa (x. Lc 3, 23-38).

1. Mầu nhiệm Nguồn Gốc của Đức Giê-su Ki-tô

Ngay câu đầu tiên của bản văn, cũng là câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, đã mở ra cho chúng ta một chân trời rất rộng: “Cuốn sách về nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô”, vì câu này làm chúng ta nhớ một câu khác trong sách Sáng Thế: « Cuốn sách nguồn gốc của Adam » (St 5, 1). Điểm khác nhau : trong Sáng Thế, đó là gia phả con cháu Adam ; trong trình thuật Tin Mừng, đó là gia phả tổ tiên của Đức Giêsu. Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra Đức Ki-tô là Adam mới, Ngài làm cho tất cả những gì xẩy ra trước Ngài, và tất cả những gì xẩy ra sau Ngài trở nên có nghĩa.

Sứ điệp ở đây không phải là tương quan máu huyết ; nhưng là Đức Kitô, ngang qua cuộc sống của mình, và nhất là với Mầu Nhiệm Vượt Qua, sẽ thực sự đảm nhận lịch sử cụ thể của loài người và của từng người để đưa tới đích, là sự sống trong Thiên Chúa. Như thế, lịch của loài người, của từng dân tộc, của từng người trở nên có ý nghĩa và có hướng đi.

Ø     Nguồn gốc Thiên Chúa : Tin Mừng Mác-cô không nói đến gia phả của Đức Giêsu, và cũng không tường thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, nhưng lại mở đầu Tin Mừng với câu : « Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa », tương tự như Tin Mừng Gioan : « Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa » (Ga 1, 1).

Ø     Nguồn gốc Con Người : Còn Tin Mừng Mát-thêu khẳng định ngay từ đầu : « Đức Giêsu Kitô, con của Đavít, con của Abraham ». Đức Giêsu là người con của một dân tộc cụ thể, như tất cả mọi người chúng ta. Tin Mừng Luca sẽ đưa Đức Giêsu đi xa hơn : Đức Giêsu Kitô là con của Adam và Adam là Con Thiên Chúa. Như thế, Đức Giêsu là con Thiên Chúa không chỉ từ thủa đời đời, nhưng Ngài là Con Thiên Chúa ngang qua Ông Bố của cả loài người chúng ta. Ngài còn là người con của Nhân Loại, là « Con của Người », là danh xưng mà Ngài rất thích dùng.

 

2. Đức Ki-tô thuộc về một lịch sử đầy những thăng trầm

Thời các tổ phụ đầy trắc trở về mọi mặt ; thời sinh sống và rốt cuộc trở thành nô lệ bên Ai Cập ; thời thử thách trong sa mạc ; thời lập quốc đầy chiến tranh loạn lạc, thời hoàng kim của Đa-vít và Salomon, nhưng mau lụi tàn bởi sự chia rẽ Bắc Nam ; thời lưu đầy bi đát, thời hậu lưu đầy thật ảm đạm với cảnh bị các đế quốc thay phiên nhau đô hộ[1]. Vậy mà, lịch sử dân tộc của Đức Giêsu vẫn có một cấu trúc cân đối một cách hoàn hảo : 14 – 14 – 14 ! (14 là hai lần 7). Chúng ta hãy dừng lại « đọc và cầu nguyện » với từng giai đoạn của bản gia phả.

Giai đoạn 1 : Đa-vít là đỉnh cao, vì Đa-vít điểm tới của lịch sử các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop và Giuse, và đồng thời Đa-vít chuẩn bị cho thời kì sụp đổ sau đó. Abraham được hứa ban cho vô điều kiện một dòng dõi. Đa-vít, người con của Abraham cũng nhận được cùng một lời hứa và cũng vô điều kiện : ngai vàng vĩnh viễn dành cho một trong những người con của nhà vua (Tv 72,17 ; Tv 47, 10), và mọi dân tộc sẽ đến qui tụ chung quanh ngai vàng Đa-vít. Trước đó, Đức Chúa cũng tuyên bố điều tương tự dành cho Abraham : Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi ; ai nhục mạ ngươi Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên trên mặt đất sẽ được chúc phúc » (St 12, 3). Như thế, vua Đa-vít sẽ mang lại sự hoàn tất hoàn hảo cho lời hứa dành cho Abraham.

Giai đoạn 2 : Tuy nhiên, trong thực tế, kết thúc phần 2 của gia phả là biến cố lưu đày ; với biến cố này, mọi điều tốt đẹp của lời hứa đều tan biến hết : đền thờ, đất đai, ngai vàng. Đất nước rơi vào tay người Babylon.

Giai đoạn 3 : Giai đoạn này là thời gian hậu lưu đày ở Babylon, dân tộc vẫn phải sống lệ thuộc vào người Ba Tư, tiếp theo là người Hy Lạp và sau cùng là người Roma. Giai đoạn này kéo dài khoảng 6 thế kỉ. Như thế, Gia phả của Đức Giêsu theo cách nhìn của thánh sử Mát-thêu, từ thời lưu đày cho đến Giuse và Đức Giêsu, vẫn có một vai trò, một ý nghĩa đối với dân tộc của Đức Giêsu. Cho dù trong thực tế, chẳng còn gì là sôi nổi, thậm chí bị mất hút nữa. Có thể nói lịch sử (theo nghĩa những biến cố đáng lưu tồn) đã dừng lại với thời hậu lưu đày. Kinh Thánh có rất ít trình thuật về thời này. Tuy nhiên khoảng trống này lại được lấp đầy bởi sự chờ đợi, chờ đợi đến tận cùng, khi mà chẳng còn gì để hy vọng (trường hợp các bà Sara, Elisabeth…). Lời nguyện của rất nhiều Thánh Vịnh diễn tả sự chờ đợi tận căn này : « Tôi đã tin cả khi mình đã nói : ôi nhục nhã ê chề… » (Tv 116B ; Tv 42-43 ; Tv 106).

Đức Giêsu đến không chỉ đến để hoàn tất lời hứa được ban cho Abraham và Đa-vít, nhưng còn đi vào trong khoảng không gian của đợi chờ (nhưng không vì thế mà Ngài đóng lại, vì chúng ta vẫn sống trong « mùa vọng » lớn). Và Ngài sẽ đi vào sự chờ đợi trong đắng cay một cách thật sự : « Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều bởi những kẻ tội lỗi », để định hướng, mang lại ý nghĩa, niềm hi vọng và dẫn đưa tới sáng tạo mới.

 

3. Và đầy tội lỗi

Hơn nữa dân tộc này cũng đầy tội lỗi như bao dân tộc khác. Hiển nhiên, các ông là những tội nhân, nhất là vua Đa-vít, một khuôn mặt tượng trưng cho lời hứa. Còn các bà thì sao ? Cả gia phả qui mô như thế, chỉ có bốn người mẹ được nêu danh, nhưng cả bốn đều « nổi tiếng » :

Ø     Bà Ta-ma, phạm tội loạn luân với bố chồng (c. 3; St 38)

Ø     Bà Ra-kháp, là cô gái đứng đường đất Canaan (c. 5; Gs 2)

Ø     Bà Ruth gốc Moab, nghĩa là dân ngoại (c. 5; Rt 4, 12-22)

Ø     Và bà Bátseva, vợ của tướng Uria, phạm tội ngoại tình với vua Đa-vít (c. 6 ; 2 Sm 11).

Khám phá này làm cho chúng ta thật an ủi: Đức Giêsu bén rễ trong tội của dân tộc Ngài, dân tộc mà Ngài sẽ cứu vớt (Mt 1, 21) ; và cách Ngài cứu sẽ rất lạ lùng : Ngài sẽ mang lấy vào thân mình ngang qua dân tộc này, tội lỗi của tất cả mọi người : « Ngài đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta » (Mt 8, 17 trích Is 53, 4). Và chính trong một lịch sử như thế mà Thiên Chúa làm trào vọt những điều lạ lùng, trào vọt ra Thánh Gia (thánh Giuse, Đức Maria và Đức Giêsu), trào vọt ra ơn cứu độ.

Là Ki-tô, chúng ta đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình, dâng hiến hay độc thân; và ơn gọi của chúng ta cũng được Thiên Chúa chuẩn bị từ xa, và cũng bằng những nẻo đường rất bình thường và cũng rất đời thường, và với cả những sai lầm tội lỗi nữa (chẳng hạn tội, của các anh đối với người em Giuse, trong sách Sáng Thế). Nhớ lại và suy đi nghĩ lại trong trong lòng để nhận ra “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136), được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ có sức mạnh để yêu mến và dấn thân bền vững hơn, theo gương của Đức Maria và Thánh Cả Giuse.

Giuse Nguyễn Văn Lộc



[1] Khi vua Salômon chết, năm 930, vương quốc bị phân chia ra làm hai : phía nam, vương quốc Giu-đa, thủ đô là Giêrusalem; phía bắc là vương quốc Israel, thủ đô là Tirsa, sau đó là Samaria. Vào năm 722, người Assyria thôn tính vương quốc Israel. Năm 587, Giêrusalem bị phá hủy và người Juda bị đưa đi lưu đày ở Babylon. Năm 539, vua Perse, là Cyrus chinh phục Babylon. Người Do Thái dần dần được trở về lập cư quanh Giêrusalem, nhưng sống dưới sự thống trị của người Perse. Từ năm 333, Alexandre chinh phục vùng Cận Đông và áp đặt nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp. Từ năm 63, người Roma chiếm cứ vùng Cận Đông và vua Hêrôđê cai trị từ năm 40 đến 4, trước công nguyên (xem Étienne Charpentier, Pour lire l’Ancien Testament, Paris, Editions du Cerf, 1994, trang 22-23).


Các bài viết mới hơn
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần IV Mùa Vọng _Lm. Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần IV Mùa Vọng C_Lm. Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng C – Nt. Thiên Thảo, SJP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng C – Lm. Giuse Mai Văn Điệp, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần III Mùa Vọng – Nt. Maria Nguyễn Thị Quỳnh Tiên
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng C_Nt. Anna Têrêsa Thiên Hoàng, O.P
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng Năm C_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng Năm C_Lm. Phêrô Trần Lê Thành Nhân
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần III Mùa Vọng Năm C_Nt. M. Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần III Mùa Vọng C_Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

Các bài viết cũ hơn
     Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Vọng A. Nhiều tác giả
     Gợi ý suy chiêm Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Vọng Năm A: NGÀI CÓ LÀ ĐẤNG CON TRÔNG ĐỢI? Nt. Têrêsa Ngọc Lễ
     Suy Niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng A: Ngài Là Ai? Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BẢY MÙA VỌNG NĂM C: MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI. Nt. Anna Nguyễn Nguyện
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BẢY MÙA VỌNG NĂM C: MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI. Nt. Anna Nguyễn Nguyện
     SUY NIỆM LỜI CHÚA THỨ SÁU TUẦN III MÙA VỌNG NĂM C.Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng, ĐMTT.
     SUY NIỆM LỜI CHÚA THỨ TƯ TUẦN III MÙA VỌNG NĂM C. Nữ Tỳ Thánh Thể
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BẢY TUẦN II MÙA VỌNG.Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ HAI TUẦN III MÙA VỌNG NĂM C. Nt. Minh Thùy
     SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM C. Nhiều tác giả