LỄ CẦU CHO
CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
NĂNG
TƯỞNG NHỚ CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN
I. LỜI CHÚA: “Thật vậy, ý của Cha
tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 40).
II. CÂU CHUYỆN:
1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU HỒN
(02/11):
Thánh
Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này nằm trong phần đất của
đế quốc Germany. Ngài là một người nhân đức, hằng ngày cầu nguyện hi sinh và
dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.
Một
hôm, một đan sĩ trong đan viện Cluny đi viếng Đất thánh. Trên đường trở về Đan
viện, tàu chở vị đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một
ẩn sĩ và được ẩn sĩ chia sẻ: “"Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang
có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với
nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ trong đan viện của ngài rằng: ngày nào họ
cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với
cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ.
Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên thiên đàng và làm cho quỉ dữ thêm đau khổ
dưới Hỏa ngục".
Sau
khi nghe biết sự việc, cha Odilo đã lập lễ Cầu Hồn vào ngày 2 tháng 11 và cử
hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998. Về sau lễ cầu hồn đã được truyền
sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn
trong Giáo hội Rôma. Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín
ngày cho các linh hồn. Trong những ngày đó họ đến đất thánh thăm viếng, sửa
sang mồ mả của cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà
xin quà cho các linh hồn. Họ hát những bài ca cổ truyền để xin cầu cho các linh
hồn mau ra khỏi Luyện ngục. Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là
"Ngày người chết". Ngày đó, người ta tụ họp các trẻ mồ côi tới gia
đình mình để cho chúng ăn, cho quần áo, quà bánh và đồ chơi… Tại miền quê nước
Balan: nửa đêm lễ các linh hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh
hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu xin được sớm thoát khỏi luyện ngục.
Sau đó các linh hồn sẽ về thăm nhà mình, thăm nơi làm việc khi họ còn sống, nên
các gia đình có người qua đời đều mở cửa sổ suốt đêm ngày 2/11 để đón các linh
hồn.
2. CHỨNG TÍCH VỀ LUYỆN NGỤC:
Có rất nhiều chứng tích về
các linh hồn từ luyện ngục về xin cầu nguyện. Ở đây xin kể ra hai chuyện được
lưu trữ tại bảo tàng Rôma:
- Chứng tích 1: Mẹ hiện
về với con trai:
Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai của bà là
Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ). Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải
xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa
bãi, khô khan nguội lạnh. Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống
tay áo của con. Kết qủa là anh đã trở lại sống thánh thiện, đã lập một hội đạo
đưc dành cho giáo dân, các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh. Anh đã
qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.
- Chứng tích 2: Mẹ chồng hiện về với
con dâu:
Nhạc
mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời
năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu. Bà buồn bã nhìn con
dâu như có ý xin điều gì. Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được bà mẹ chồng
cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện cho mình bằng cách đi hành
hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental. Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin.
Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho
biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng. Bà Magarita xin một
bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước
đang để mở trên bàn…và từ đó bà không còn hiện về nữa.
III. SUY
NIỆM: TƯỞNG NHỚ TIỀN NHÂN:
1. Đức Kitô thiết lập
Nước Trời: Nước Trời trần gian là Hội Thánh ở
trần gian hôm nay và Nước trời trên Thiên đàng mai sau. Điều kiện để được gia
nhập vào Nước Trời Hội Thánh ở trân gian là phải có lòng sám hối tội lỗi
và tin vào Chúa Giêsu, phải được tái
sinh bởi nước và Thánh Thần như lời Đức Giêsu đã kêu gọi khi ra giảng đạo: “Hãy
ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15). Người cũng dạy: “Không ai có
thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5). Phải
thực hành giới răn bác ái bằng cách thực thi Tám mối phúc (x. Mt 5, 3-12).
Ngoài ra, để có được sự sống vĩnh cửu trên Thiên đàng, đòi người ta phải “chiến
đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24), phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa”
(x. Mc 8, 34), và “cùng chết với Chúa để cùng được sống lại với Người” (Rm 6, 8).
2. Mầu nhiệm các
thánh thông công: Chúa Giêsu chỉ thiết lập một Hội Thánh duy nhất trên nền đá tảng đức tin của tông
đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt
16, 16). Hội thánh do Đức Giêsu thiết lập gồm ba tình trạng: Một là Hội Thánh
Lữ Hành trần gian gồm các tín hữu đang sống, đang phải chiến đấu chống lại ba
thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Hai là Hội Thánh Vinh Quang trên
Thiên đàng gồm các thánh nam nữ đang được hưởng hạnh phúc với Chúa. Ba là Hội
Thánh Đau Khổ gồm các linh hồn đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, để
họ ngày thêm thanh sạch thánh thiện và hy vọng một ngày nào đó sẽ được về Thiên
đàng. Còn những ai chối bỏ Thiên Chúa, nghe theo ma quỷ phạm các tội ác mà
không chịu hồi tâm sám hối, là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh và sẽ bị phạt
trong hỏa ngục muôn đời, “chung số phận với tên Ác quỷ và các sứ thần của nó”
(Mt 25, 41).
3. Bổn phận đối với các linh hồn
trong luyện ngục: Đức Giêsu đã mặc khải về sự thanh luyện ở đời sau
khi nói: "Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi
nơi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng" (Mt 5, 26).
Luyện ngục chính là phương cách Chúa dùng để thanh luyện các linh hồn khi chết
vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù những thiệt hại đã gây ra cho tha
nhân khi còn sống ở trần gian. Cầu xin Chúa giúp họ ngày một nên thanh sạch
thánh thiện để sớm được Chúa rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Do đó,
trong tháng các linh hồn này, mỗi tín hữu chúng ta cần dọn mình lãnh các ơn đại
xá tiểu xá (với các điều kiện thường lệ), để chuyển các ơn ấy cầu cho các linh
hồn trong chốn luyện hình; Ngoài ra, cần siêng năng lần hạt Mân Côi, xin lễ và
làm những việc bác ái để đền tội thay cho các linh hồn là thân nhân, hay các
linh hồn mồ côi … để họ sớm được về trời. Khi lên trời chắc họ sẽ không quên
cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Còn các linh hồn bị
sa hỏa ngục do đã trở thành quỷ dữ, thì không còn thuộc về Hội Thánh nữa, nên
chúng ta không cần cầu nguyện cho họ.
4. Về việc cầu
nguyện cho các
linh hồn mồ côi: Thực ra, Hội thánh từ xưa đến nay không đặt vấn đề “linh hồn mồ
côi” trong niềm tin và trong thực hành. Hội thánh không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân cầu
nguyện, nên trong
mọi thánh lễ dù có người xin lễ cầu riêng cho linh hồn thân nhân, thì vẫn có lời cầu chung cho tất cả “các tín hữu đã ly trần
trong tình thương của Chúa”, gồm mọi tín
hữu và cả các linh hồn chưa nhận biết Chúa. Như vậy: Nói linh hồn mồ côi chỉ là nói theo cách
suy nghĩ của loài
người chúng ta, nhưng cũng không sai
với giáo lý và sự thực
hành của Hội Thánh.
Thật vậy, trong phụng vụ
thánh lễ hay kinh nhật tụng, Hội thánh
vẫn khuyến khích việc cầu nguyện chung cho các linh hồn cũng như riêng từng linh hồn theo ý người xin lễ để cầu
cho linh hồn mới qua đời cũng như cầu chung cho các linh hồn. Việc cầu nguyện ấy chắc sẽ
mang lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Từ đó, có
thể suy ra: những linh hồn không có thân nhân xin
lễ cầu nguyện sẽ bị thua thiệt, nên đức ái buộc các
tín hữu còn sống cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn mồ
côi này. Linh hồn mồ côi chính là những linh
hồn bị quên lãng, vẫn đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, nên rất
cần được các tín hữu chúng ta vì đức bác ái hãy tưởng nhớ, xin lễ và làm các việc
lành để cầu cho họ nữa.
IV. LỜI CẦU:
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn đã qua đời được nghỉ yên muôn đời,
và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các
linh hồn ấy.
Lm Đan Vinh -
HHTM