Ngày 1 Tháng Mười
THÁNH TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH
(1873-1897)
“Thiên
Chúa đã ban cho tôi một người mẹ và một người cha, xứng đáng sống ở trên trời
hơn là ở
dưới đất”. Đó là lời thánh nữ Tê-rê-xa ca tụng cha mẹ ngài. Ông Lu-y Ma-ti-nô
và bà A-de-ly Ghê-ranh. Quả thực hai ông bà ví như những cây được trồng bên suối
nước, cành lá luôn xanh tươi và trổ sinh hoa trái bốn mùa. Trước đó, cả hai đều
lần lượt đến
gõ cửa tu viện, xin dâng mình phụng thờ Chúa. Nhưng ý Chúa Quan phòng đã muốn
cho họ sống đời vợ chồng, làm vinh danh Chúa ở
giữa trần gian.
Năm 1858
Thiên Chúa đã xe duyên cho Lu-y Ma-ti-nô và A-dê-ly Ghê-ranh, tại A-lăng-sống,
đôi vợ chồng trẻ đã sống những ngày hạnh phúc mà không quên xin Chúa chúc lành
và nếu Chúa muốn, xin ban cho gia đình đông con để thờ phượng Chúa. Được Chúa
nhận lời, hai ông bà đã lần lượt sinh hạ chín người con, hai trai bảy gái. Hai
cậu con trai đã theo chân hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại năm chị em
gái tất cả đều nết na, đạo đức
và lần lượt dâng
mình cho Chúa trong Dòng Kín. Đúng là mẹ hiền để đức cho con vậy.
Tê-rê-xa
là con út và sinh ra ngày 2 tháng giêng năm 1873 tại A-lăng-sống. Chưa đầy bốn
tuổi, Tê-rê-xa đã phải sống cảnh mồ côi mẹ. Người mẹ hiền từ và đầy lòng đạo đức
ấy đã được Chúa cất về sau những ngày hết lòng mến Chúa và tận tụy giáo dục con
cái. Sau đó gia đình ông Lu-y Ma-ti-nô dọn về sống ở nông trại Búit-xô-nê tọa lạc gần tỉnh
Li-di-ơ. Chính nơi đây Tê-rê-xa được hưởng nền giáo dục đầy đủ về cả trí lẫn đức
nhờ sự săn sóc cưng chiều của người cha và các chị, bù lại tình thương ấp ủ của
người mẹ đã chết. Ngay từ lúc ba tuổi Tê-rê-xa đã hứa với Chúa quyết không từ chối
Ngài điều chi. Lòng mến ấy tuy đơn sơ, nhưng lại nồng thắm và keo sơn gắn bó.
Bao nhiêu đồ chơi nho nhỏ và quý báu cũng như những tâm tư thầm kín trong lòng,
Tê-rê-xa đều dâng lên Chúa Giê-su hết. Năm 1881, Tê-rê-xa được gửi học tại trường
các chị dòng Biển Đức ở
Li-si-ơ. Trong thời gian sống tại đây, Tê-rê-xa rất xuất sắc về học hành cũng
như về đạo đức. Năm 1833 thánh nữ lâm bệnh nặng khiến mọi người trong gia đình
lo âu. Song song với công việc chạy thầy chạy thuốc, cả gia đình hiệp ý sốt sắng
làm tuần cửu nhật dâng kính Đức Bà Thắng Trận, cầu xin cho Tê-rê-xa được khỏi bệnh.
Ngày chủ nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, đang lúc người ta làm việc khấn Đức
Mẹ cầu cho Tê-rê-xa, thì thánh nữ đã trông thấy tượng Đức Mẹ đặt trong phòng mỉm
cười với thánh nữ. Đồng thời cơn bệnh biến đi một cách mau lẹ và Tê-rê-xa cảm
thấy trong người khoan khoái dễ chịu. Năm 1884, Tê-rê-xa được rước lễ vỡ lòng
và chịu phép thêm sức.
Lễ sinh
nhật năm 1887, Tê-rê-xa như cảm nhận được tiếng Chúa thôi thúc trong lòng. Cô
muốn theo gương hai chị đi tu dòng. Sau bao ngày suy nghĩ và cầu nguyện,
Tê-rê-xa đã chọn ngày lễ Hiện Xuống để tỏ ý muốn đó với ông thân sinh. Thế rồi
ngày 31 tháng 10, hai cha con đến yết kiến Đức Cha Bay-Ơ, xin ngài cho Tê-rê-xa
được vào Dòng Kín lúc 15 tuổi. Nhưng Đức Giám mục và Bề trên Dòng Kín đều từ chối.
Không thôi chí, hai cha con lặn lội sang tận Rô-ma tâu xin Đức Giáo Hoàng.
Trong một lá thư gửi chị Pô-lin, Tê-rê-xa đã thuật lại cuộc triều yết đó như
sau: Chị nghĩ xem tâm hồn em sẽ phải rung động biết bao khi đến lượt em lên hôn
chân Đức Thánh Cha. Em đã quyết định tỏ lòng ước vọng của em với ngài, chứ chẳng
chịu về không. Em đã mạnh dạn đạo đạt ý nguyện của em, nhưng em không nói hết
được vì cha Rê-vê-rô-ai không cho em đủ thời giờ để tâu xin. Dầu vậy, ngay khi
đến bên chân Đức Thánh Cha, em đã mạnh dạn nói: Tâu lạy Đức Thánh Cha, con muốn
xin vào Dòng Kín năm 15 tuổi. Đức Thánh Cha bảo em: “Được, nếu Chúa muốn con sẽ
được vào Dòng Kín”... Thưa chị, lần này em cũng khóc không kém gì lần đến hầu Đức
Cha Bay-Ơ. Nhưng rồi em lại trấn tĩnh được ngay với ý tưởng: em chỉ là quả bóng
của Chúa Giê-su Hài Đồng, hoàn toàn tùy thuộc quyền sử dụng của Người. Phần em,
em luôn theo ý Người” Chính tư tưởng tốt đẹp và đầy phó thác này đã nuôi dưỡng
ý chí của Tê-rê-xa và nhờ tinh thần phó thác trọn hảo Tê-rê-xa đã được Chúa ban
cho như sở nguyện: Ngày 9 tháng 4 năm 1888 Đức Giám mục chấp thuận cho Tê-rê-xa
được miễn tuổi và vào Dòng Kín. ít lâu
sau Tê-rê-xa lại được mặc áo dòng và chính thức nhận tên Dòng là “Tê-rê-xa Hài
Đồng Giê-su”.
Tê-rê-xa
luôn luôn tuân thủ luật dòng và chu toàn bổn phận với một tinh thần hy sinh, hiền
hoà và nhẫn nhịn. Trong một lá thư gửi cho chị Bề trên thánh nữ viết: “Từ tháng
7 năm ấy em giặt quần áo cho các chị em trong nhà. Ngoài ra em còn phải quét cầu
thang, phòng ngủ và lúc 16 giờ, phải làm cỏ nữa. Sau ngày mặc áo dòng, em giữ
nhiệm vụ dọn bàn ăn, quét nhà, kín nước và dọn phòng thánh. Từ ngày 3 tháng 4
năm 1896 vì mắc bệnh đau phổi nên mẹ Bề trên để em phụ tá nhà may với một chị
khác”. Với lòng bác ái, Tê-rê-xa thường mau mắn đến giặt giũ giúp các chị em,
nhất là chị em nào khó tính, như để có dịp để tập luyện đức chịu đựng và tính
niềm nở vui tươi.
Tháng 10
năm 1891 sau tuần tĩnh tâm do cha A-lê-xu Pu giảng, Tê-rê-xa được ơn mặc khải
riêng và hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa. Chị sống cuộc đời âm
thầm bình dị trong tinh thần tận hiến. Chính vì thế trong dòng không ai để ý đến
cách sống của chị, ngoại trừ mẹ Bề trên Ma-ri-a A-nhét Giê-su, tức nữ
tu Pô-lin, chị ruột của Tê-rê-xa. Vì hiểu tâm hồn và đời sống thánh thiện của em, Mẹ đã
truyền cho Tê-rê-xa viết lại chính đời sống của chị trong cuốn Thủ Bản Tự Thuật
vẫn quen gọi là “Truyện một tâm hồn”.
Dường như
Chúa càng yêu ai thì càng ban cho người đó nhiều gánh nặng, nhiều đau thương.
Thánh nữ Tê-rê-xa không tránh khỏi thông lệ đó. Ngày 14 tháng 6 năm 1895 trong
khi bắt đầu ngắm đàng thánh giá Tê-rê-xa đột nhiên cảm thấy như có một vết
thương đau nhói bên cạnh
sườn. Phục sinh năm sau, chị lại phải chịu những thử thách nặng nề về đức tin,
trong khi thể xác bị hao mòn vì cơn bệnh ho lao hành hạ. Dẫu vậy, Tê-rê-xa vẫn
luôn tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Ngài viết: “Chúa sẽ mệt mỏi, sẽ chán thử
thách tôi, chứ không bao giờ tôi hoài nghi Chúa... Không phải vì tôi giữ được
linh hồn sạch tội trọng mà tôi trông cậy vào Chúa đâu, cả khi tôi cảm thấy tất
cả tội lỗi của người ta đè nặng trên lương tâm, tôi cũng không mất lòng tin tưởng
vào Chúa. Lúc đó với lòng ăn năn thống
hối, tôi dâng hiến toàn thân tôi
vào cánh tay Chúa cứu chuộc tôi... Tất cả các tội đó sẽ tan đi như giọt nước nhỏ,
tan biến trong ngọn lửa đang bừng cháy”. Càng về cuối đời, Tê-rê-xa càng phải
chịu nhiều thử thách cả về tâm hồn lẫn thể xác. Tuy đớn đau và tăm tối, nhưng
lúc nào. Tê-rê-xa cũng giữ nét thanh thản trong tâm tình phó thác và tin yêu.
Ngày 8 tháng 7 năm 1897 thánh nữ lâm bệnh nặng. Vào lúc 19 giờ ngày 30 tháng 9
năm 1897 chị qua đời trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh
hồn được ơn cứu độ
và Hội Thánh được phát triển. Trước khi tắt thở chị còn kêu: “Ôi lạy Chúa
Giê-su của con, con yêu mến Chúa!”
Ra đi còn
rất trẻ, ở tuổi 24, với chín năm sống trong Dòng Kín, nhưng chị thánh đã để lại
cho Giáo Hội một gia tài thiêng liêng quý báu. Đó là những tư tưởng đạo đức và lối sống rất Tin Mừng và hợp thời của
chị.
Càng ngày
những tư tưởng của chị thánh càng thu hút nhiều người. Sách Giáo lý Hội Thánh
Công giáo được
Đức Giáo Hoàng công bố
ngày 11/10/1992 đã nhiều lần trích dẫn tư tưởng của thánh nữ như một uy tín lớn.
Mọi tư tưởng của thánh nữ được gói ghém trong cuốn “Truyện một tâm hồn” do
thánh nữ viết theo lệnh của Mẹ Bề trên.
Sở dĩ các
tư tưởng của Tê-rê-xa được trân trọng và học hỏi, là vì các tư tưởng đó chan
hoà sức sống Tin Mừng. Trong cuốn “Truyện một tâm hồn, chị thánh đã trích dẫn
Tin Mừng cả thảy 281 lần khác nhau. Các nguồn Tin Mừng ấy khi đi vào cuộc đời
Tê-rê-xa đã không còn là một lý thuyết, nhưng đã biến thành sự sống của
Tê-rê-xa. Thiên Chúa trong Tin Mừng là tình yêu của chị. Con đường Chúa Giê-su
đi trở nên cuộc đời của chị. Vĩ thế, có thể nói Tê-rê-xa là một Tin Mừng sống.
Khi nói về Tin Mừng, Tê-rê-xa khẳng định: “Trên tất cả vẫn là Tin Mừng. Nó nâng
đỡ con suốt giờ nguyện ngắm. Nơi Tin Mừng, con tìm được tất cả những gì cần thiết
cho linh hồn non yếu của con. Con luôn luôn tìm được ở đó những nguồn sống mới”.
Ngoài ra,
khi nói về thánh nữ Tê-rê-xa, người ta không thể không nghĩ ngay đến “Con đường
thơ ấu thiêng liêng” mà chị đã đi, đã sống và giới thiệu cho mọi người. Đó cũng là gia sản quý
báu chị để lại cho Giáo Hội và nó đã sinh nhiều hoa trái thiêng liêng cho các
tâm hồn. Chị thánh đã giới thiệu nét đầu tiên cũng là nét cơ bản của con đường
thơ ấu bé nhỏ đó như sau:
“Con muốn tìm ra phương pháp lên trời
bằng một con đường nhỏ, vừa thẳng lại vừa ngắn,
một con đường nhỏ hoàn toàn mới... và con đã đọc thấy những lời sau đây phát xuất
từ miệng Đấng Khôn Ngoan muôn
đời: “Ai thực bé nhỏ thì hãy đến với Ta”. Vì thế, con chẳng cần phải lớn lên,
trái lại con cần phải cứ bé hoài và càng ngày càng bé dần đi mãi”. Nơi khác chị
thánh cho biết: “Con đường thơ ấu thiêng liêng là con đường tin tưởng và phó
thác. Tôi chỉ muốn theo những phương pháp nho nhỏ, vì giúp tôi thành công rất
nhiều... Ớ trần gian này, chỉ cần thi hành một điều tối quan trọng là dâng lên
Chúa Giê-su tất cả những hy sinh nho nhỏ. Sự thánh thiện không cốt tại làm việc
này hay việc khác, nhưng hệ tại ở tâm trạng
linh hồn: Linh hồn phải khiêm tôn, phó thác trong tay Thiên Chúa toàn năng, phải
nhận biết mình yếu đuôi và cương quyết tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Sau cùng, không được thất vọng vì những lỗi lầm đã phạm, biết rằng những trẻ nhỏ
cũng thường vấp ngã đấy thôi”.
Thực ra
có thể nói: “Con đường thơ ấu thiêng liêng” của Tê-rê-xa đã phát xuất từ kinh
nghiệm bản thân về đời sống thơ ấu bên cạnh một người cha rất mực yêu thương chị.
Thân phụ chị, ông Ma-ti-nô Lu-y đã yêu thương, cưng chiều cô con gái út vừa mồ
côi mẹ, bằng cả tình phụ tử và mẫu tử nữa. Tình yêu ấy, Tê-rê-xa đã cảm nghiệm
được nơi Chúa Giê-su ở mức tuyệt vời thế nào khiến chị đã phải kêu lên và bộc bạch:
“Ôi Giê-su, tình
Yêu của con! Con đã tìm thấy ơn gọi của con rồi, ơn gọi con là tình yêu...
Trong trái tim Hội Thánh, Mẹ hiền, con
sẽ là tình yêu... Con muốn chiếm đoạt chính Chúa ho đến muốn đời. Con chẳng muốn
hưởng ngai báu hay triều thiên nào khác hơn là chính Chúa; Ôi lạy Chúa Giê-su, con yêu mến!”
Một điểm
đặc biệt khác nữa trong tư tưởng và đời sống tu đức của chị thánh Tê-rê-xa mà
ai cũng phải ngỡ ngàng cảm phục. Là một chị Dòng Kín, chỉ khép mình suốt đời
trong bốn bức tường kín của Đan viện ở Li-si-ơ, thế mà tâm hồn Tê-rê-xa lại
luôn hướng về cánh đồng truyền giáo xa xăm ở Á Châu. Chị nhận lời cầu nguyện
cho một linh mục thừa sai ở phương trời xa lạ ấy và mỗi ngày hứa dâng một hy sinh nhỏ
cho công việc truyền giáo. Hơn nữa, chị thánh còn có một ao ước lạ lùng về việc
truyền giáo. Phải chăng lòng chị đã bừng bừng ngọn lửa yêu Chúa và yêu các linh
hồn? Phải chăng vì nếp sống đạo quá an phận và thiếu quan tâm của nhiều người,
mà Chúa muốn cảnh tình và dùng chị dòng trẻ Tê-rê-xa để nói lên niềm thao thức
truyền giáo một cách mê say: “Con muốn đi rao giảng Tin Mừng khắp năm Châu, đến
tận cùng những hòn đảo xa xôi nhất. Con muốn làm vị thừa sai không những trong một ít năm, mà còn muốn được làm
thừa sai từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế!”
Chị thánh
Tê-rê-xa, một nữ tu đã được đặc cách nhập dòng lúc tuổi còn rất trẻ. Chị lại
giã từ trần thế đang lúc xuân xanh: 24 tuổi đời và 9 năm tuổi dòng. Chị đã sống
đời sống khiêm tốn, đơn sơ theo đúng tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác
cho Thiên Chúa theo
“con đường thơ ấu thiêng liêng” của mình.
Thời gian
chị sống ở trần gian thật quá vắn vỏi Nhưng sự nghiệp và những giá trị thiêng
liêng chị để lại thật lớn lao.
Thiên
Chúa quả thực đã nâng cao người khiêm tốn và mở cửa Nước Trời cho những người
bé mọn. Ngài đã làm nhiều việc kỳ diệu nơi thánh nữ và Ngài đã làm vinh danh chị
bằng nhiều sự lạ ngay khi chị vừa tạ thế. Người ta kể lại: Một chị dòng trong
Đan viện bị bệnh đau màng óc đã lâu năm, đến quỳ cầu nguyện bên thi hài của
thánh nữ và hôn chân chị thánh, bệnh của chị dòng ấy đã khỏi từ ngày đó. Một nữ
tu khác lúc ấy đang ở trong phòng riêng đóng kín cửa, bổng nhiên chị ngửi thấy mùi hương
hoa ngào ngạt, mặc dầu trong phòng không trưng bông
nào. Cũng chính lúc chị thánh trút hơi thở, có một chị dòng đã trông thấy một
tia sáng mầu vàng rực rỡ bay vút lên trời; một chị khác thì được tận mắt nhìn
thấy một mũ triều thiên nhỏ long lanh từ phía mặt đất bay lên không trung rồi
biến mất trong vùng trời xanh. Người ta còn kể rằng: Khi liệm xác chị, Mẹ Bề
trên có đặt vào tay Tê-rê-xa một ngành lá vạn tuế. Ngành yạn tuế ấy, khi cải
táng chị thánh vẫn xanh tươi, hầu như không bị hủy hoại hay đổi màu sau 13 năm
chôn cùng với chị.
Khi còn sống,
có lần chị thánh đã “hứa”: “Khi về trời sẽ làm mưa hoa hồng xuống trần gian”.
Hoa hồng đây là những ân sủng Chúa ban cho những ai thực hành con đường thơ ấu thiêng liêng của chị
với lòng mến
và hv sinh. Hoa hồng cũng đươc hiểu là những ân huệ thiêng liêng vật chất hay những sự lạ như vừa kể
trên mà Chúa
ban xuống qua lời bầu cử của thánh nữ.
Thánh nữ
Tê-rê-xa quả thực đã sớm được Chúa nâng lên đài vinh quang để tưởng thưởng công
trạng và nêu cao gương sáng cho hậu thế. Năm 1925, nghĩa là 28 năm sau khi chết,
Đức Giáo Hoàng Pi-Ô XI đã phong chị lên bậc Hiển thánh. Hai năm sau, ngài lại đặt
Tê-rê-xa làm thánh bổn mạng các vị thừa sai và các miền truyền giáo. Ngày 19
tháng 10 năm 1997, Đức Gio-an Phao-lô II ghi tên chị vào sổ các Tiến sĩ Hội
Thánh.
Lời nguyên:
Lạy Chúa
là Cha nhân lành, Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn.
Xin cho
chúng con hằng ngày biết theo chân thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su bước đi trên
con đường phó thác để muốn đời
được chiêm ngưỡng thánh nhan.
Chúng con
cầu xin, nhờ Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con.