Suy Niệm Lời
Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B
TÍN
THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc
5, 21-43
(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên
kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ.
(22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông
ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần
chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”.
(24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25)
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy
chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm
nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến
phía sau Người, và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được
áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong
mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự
nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo
Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy
còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ
làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình.
Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói
với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và
khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng
hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng
Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô,
ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội
đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà
và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ
đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài, rồi dẫn cha mẹ đứa
trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay
nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi
!”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập
tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một
ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
2.Ý CHÍNH : Ông trưởng hội đường tên
Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu nên đã
được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh băng huyết cũng
nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên cũng được lành bệnh.
Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người khỏi hậu quả của tội
lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ ấy, người ta
phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ
THÍCH :
-C 21-24 : + Bờ Biển Hồ : Biển Hồ nói
đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6, 1) hay
Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5, 1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12
km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc
4, 35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5, 4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6, 16-21).
Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14, 14.35-36).
Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14, 15-21; 15, 32-39).+ Viên trưởng hội
đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái.
Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để
rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4, 23; Lc 4, 31-37.44). + Ông ta sụp xuống dưới chân Người
và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống dưới chân Đức
Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. + “Con bé nhà
tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được
sống” : Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người
đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các
phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai
năm:
Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo
Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi
trở nên ô uế (x. Lv 15, 25-27). + Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau
Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi,
là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của
Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám
vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
-C 29-31: + Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh:
Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm
phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. +
“Ai đã sờ vào áo Tôi ?”: Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức
rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng phát xuất từ Người và do ý định của
Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và
đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên
Sai.
-C 32-34 : + Bà này sợ đến phát run, vì biết
cái gì đã xảy đến cho mình : Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê
tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ
phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người : Đức tin của người
đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan
tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm
đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con
đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” : Đức
Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy
trông vào Người, chứ không phải cái áo Người mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37 : + “Con gái ông chết rồi, làm phiền
Thầy chi nữa ? : Qua
câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ
chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái
ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích
lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu
muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói : “Cái gì
cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23). + Người không cho ai
đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an :
Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5, 37;
9, 2; 14, 33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba
môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19, 35).
Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị
(x. Đnl 19, 15; Mt 18,16).
-C 38-40 : + “Sao lại náo động và khóc lóc như
vậy ?” :
Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia
nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết. +
Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! : Trong Thánh Kinh, sự chết
được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ” (x. 1 Cr 15, 6); “Về
những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4, 13); “an giấc trong Đức Giêsu” (x. 1
Tx 4, 14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói : “La-da-rô bạn của
chúng ta đang yên giấc” (Ga 11, 11). Ở đây, khi khẳng định cô bé chưa chết, mà
chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho em sống lại,
được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ
ra ngoài : Sự kiện này cho thấy : Những người không tin và chế nhạo thì
không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói : “Không nên lấy của
thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo !”.+
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm :
Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an
là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để
gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật !”.
-C 41-43 : + “Này bé, Thầy truyền cho con :
Chỗi dậy đi !”: Cũng
như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện
(x. St 1, 3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức
sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết
(x. Mt 28, 18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc
ấy : Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự
bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan
về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ
này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU HỎI : 1) Biển Hồ nói
đây là biển gì ? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực
này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường
Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái
độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn
bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà
ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức
Giêsu lại hỏi đám đông : ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị
bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người
đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu
nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho
người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin
? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông
này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh
Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia,
tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được
chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16)
Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con
đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC TIN VÂNG PHỤC CỦA
ÁP-RA-HAM:
Ông Áp-ram khi đã già
yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin
vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở
thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã
nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được
Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12
tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho
ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp
nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức
Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con
làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ.
Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến
ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con
cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những
điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ
của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển (St 22,1-18).
2. TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang
đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt
cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng
thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai
thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu
chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một
mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân
đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của
Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc
Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con,
trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là
lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3) PHẢI THỰC LÒNG KHI CẦU XIN:
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé
lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn
tiếng : "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn
sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày
thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn
thờ : "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng
mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều
đã nghe. Bà không muốn chấp nhận những gì bà đã cầu nguyện.
4) ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI MẠNH TIN SẼ CỦNG CỐ CHO NGƯỜI YẾU TIN:
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước
Hungary để trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến
nhà vị linh mục. Bước vào phòng, sau khi đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây
thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục:
- Này, ông có biết không, cái đó là một sự
dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây
giờ ở đây chỉ có ông và tôi, Vậy ông hãy thú nhận là ông không hề tin vào ông Giê-su chết
trên thập giá kia là Con Thiên Chúa.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
- Tôi thật sự vững tin như thế !
Viên sĩ quan liền rút súng ra và bảo:
- Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng
định đó là sự dốt trá, tôi sẽ giết ông ngay!
Vị linh mục đứng thẳng người, nhìn
sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
- Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thật
sự là Con Thiên Chúa!
Thật bất ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan liền buông
tay ra để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục vừa
khóc vừa nói :
- Xin lỗi cha, con chỉ muốn thử xem cha có tin
thực sự không! Đúng thế, con cũng đã âm thầm tin Chúa nhiều
năm qua giống như cha ! Giờ đây, con đã khám phá ra rằng: Vẫn
có ít nhất một người đã dám chết vì đức tin của
mình, chính cha
đã củng cố đức
tin
yếu kém của con!
3. THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan
thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt
qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa
thương xót của Chúa không ? Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm
nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn
được ơn Chúa cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là
người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình
thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho
lành bệnh loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là
một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông
trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị
chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục
đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức
Giê-su mà bé gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”:
“Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi!” (Mc 5, 41).
Trong cả hai phép lạ
này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội
đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là
bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi
luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người
khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới
ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin
Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để
người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi
đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo
của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi
bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho
Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi
?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi:
“Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà
này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước
mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con,
lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh” (Mc 5, 30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông
là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của
Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức
Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về
nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản
lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: "Đừng sợ, cứ
tin". Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng
đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho
con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền
năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa
cứu độ.
4) Sống đức
tin trong cuộc sống hôm nay:
- “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con
chết mất!”
(Mt 8, 25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng
ta đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô
biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện
với những vấn đề vượt quá sức tự nhiên
của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ
yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng
con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8, 25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin
yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế ?
Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (Mc 4, 40). Nhưng đồng thời Người
sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta.
“Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
- “Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5, 36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó
khăn mà cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn
cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su
trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực
sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo
ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy
nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành,
phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho
những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
- “Đừng theo
ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26, 39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương
Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác
tập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu
theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa
Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu
nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như
lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến
yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
- Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có
sự cộng tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm
phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2, 7); Trong
phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc
bánh và 2 con cá" (Mc 6, 35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa
bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga
9, 1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết
các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn
ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
- Tất cả đều
là hồng ân:
Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và
nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin
thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả
những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần
rỗi đời đời của ta.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu
nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay
và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn
chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự
quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành
như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM