CHỦ
NHẬT 2 VỌNG C
Đối
với đa số người thì điều đáng quan tâm trong cuộc sống là quyền lực. Người Ki
tô hữu được mời gọi nhìn mọi sự một cách khác. Tức là phải nhìn nhận sức mạnh
hoạt động của Chúa Thánh Thần đang qui tụ các cá nhân rải rác khắp nơi thành một
dân tộc nối kết bằng Tình yêu, khởi đầu cho một Nhân lọai được đổi mới. Giữa
Sức mạnh nầy và các quyền lực của trần gian không có điểm chung.
Sách
tiên tri Ba rúc:
Sách
Ba rúc diễn tả tình trạng thiêng liêng của những người Do thái phân tán ở xa
quê hương của họ. Mới nhìn thì dường như họ mất tất cả mọi sức mạnh, nhưng thực
ra, họ vẫn giữ được niềm xác tín rằng tương lai thuộc về họ. Một ngày không xa,
Thiên Chúa sẽ qui tụ lại Dân của Người và tất cả những ai chống lại Người sẽ
phải sụp đổ. Một vũ trụ đổi mới sẽ xuất hiện.
Thánh Vịnh 125:
Thánh
vịnh nầy ca ngợi Niềm Hi vọng. Is ra ên đã bị phân tán trong cảnh lưu đày. Một
ngày nào đó, Thiên Chúa sẽ dẫn họ trở về quê hương. Cuộc Trở về kì diệu nầy sẽ
khởi đầu cho kỉ nguyên Thiên sai. Niềm vui sẽ tiếp nối tuyệt vọng.
Thư
gửi tín hữu Phi líp phê:
Các
tín hữu Phi líp từ ngọai giáo trở lại họp thành một Cộng đoàn nhiệt thành.
Nhiều lần họ đã chứng tỏ lòng biết ơn của họ đối với vị Tông đồ đã mang đến cho
họ TIN MỪNG. Khi viết cho họ, Phao lô vui mừng xác nhận lòng quảng đại đã thúc
đẩy họ. Ngài cầu chúc cho Hội Thánh trẻ trung nầy còn tiến bộ hơn nữa trong sự
sáng suốt và trên đường công chính. Nhờ đó, họ có thể vững vàng tiến về “Ngày
của Chúa” và tiếp cận Sự Sống sung mãn.
Tin mừng: Lc 3,1-6
NGỮ CẢNH
Đoạn
Tin Mừng nầy là trình thuật thứ nhất trong bộ ba trình thuật mà các tác giả Mát
thêu, Mác cô và Luca dùng để dẫn nhập vào cuộc đời công khai của Chúa Giê su:
hoạt động rao giảng của Gioan Tẩy giả (1); phép Rửa của Chúa Giê su (2); các
cám dỗ Chúa Giê su phải chịu trong sa mạc (3).
Trình
thuật thứ nhất nói về hoạt động của Gioan Tẩy Giả bao gồm: khung cảnh lịch sử
(3,1-2); lời loan báo của vị tiền hô theo sách Tiên Tri Isaia (3,3-6); lược tóm
lời rao giảng cho tất cả mọi người (3,7-9) và cho nhiều tầng lớp giai cấp xã
hội (3,10-14); lời tuyên bố về sự thấp kém của ông so với đấng Messia
(3,15-18), sau cùng là thông tin về việc ông bị bỏ tù (3,19-20).
TÌM HIỂU
Năm
thứ mười lăm: như trong 1,5 và 2,1-3, Luca đưa trình thuật tin mừng của mình
vào dòng lịch sử thế tục. Chúng ta đang ở vào năm 782 từ lúc Rôma được thiết
lập, tức vào khoảng năm 26 của thiên niên kỉ trước. Tác giả nêu tên các nhà
lãnh tụ chính trị trong vùng đó và quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem. Vùng
Iturêa, Tracônitiđia và Abilênê là những vùng đất dân ngoại thuộc tỉnh Syria
thuộc quyền cai trị của Hoàng đế La mã là Tibêriô Cesarê. Vùng đất nầy đang bị
người La mã đô hộ, và dân chúng đang trông chờ giải phóng.
Lời
Thiên Chúa: sau khi đã khơi dậy nhiều vị Tiên Tri (1Sm 3; Gr 1,2; Ed 1,3; vv),
lời Thiên Chúa dường như đã lịm tắt. Thế rồi giờ đây lời Chúa lại vang lên nơi
miệng ông Gioan, ẩn dật trong sa mạc (1,80), nơi cô tịch, nhưng cũng là nơi gặp
gở với Thiên Chúa. Chính từ nơi khô cằn vắng bóng sự sống nầy sẽ phát sinh ra
một thế giới mới.
Sông
Gio đan: gần sông Gio đan là địa bàn hoạt động của ông Gioan. Dường như ông làm
phép Rửa ở vùng cao Giêricô. Đó là nơi ông Giô suê (hình bóng và có cùng tên
với Chúa Giê su) ngày xưa dẫn dân ưu tuyển vào đất hứa.
Rao
giảng: động từ nầy chỉ lời rao giảng ban đầu loan báo biến cố cứu độ ngay từ
lúc khởi thủy của Giáo Hội. Nó gợi lại một lời loan báo chính thức, công khai,
của một sứ giả (kerux), phát ngôn nhân của một uy quyền (Cv 8,5; 9.20; vv..).
Ông Gioan là sứ giả của Thiên Chúa (x. 9,2).
Tỏ
lòng sám hối: trong hy ngữ, từ nầy chỉ “sự thay đổi tận trong tâm hồn”. Sám hối
có nghĩa là quay trở lại với Thiên chúa, ý thức rằng Người là ân sủng và chỉ có
ân sủng của Người mới giúp người ta hiệp thông với Người. Nghi thức do Gioan đề
nghị để tỏ lòng sám hối là một “phép rửa”, đó là sự dìm thụ nhân xuống nước,
hình ảnh nói lên sự từ bỏ (x. Mc1,4). Chúa Giê su dùng cụm từ nầy để chỉ sự
Thương Khó của Người (Lc 12,50).
Để
được tha tội: như các tiên tri trong Cựu Ước, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân Chúa
“trở về” với Thiên Chúa của mình bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Điều mới lạ
mà Gioan mang lại là đánh dấu cuộc trở về nầy bằng một phép rửa, và chỉ ban có
một lần mà thôi, vì án xử đã gần kề (Lc 3,7-9.17). Phép Rửa nầy (trong nước)
không phải là phép rửa Ki tô giáo (trong lửa, Thánh Thần) có năng lực tha tội
(Cv 2,38; 22,16).
Hoang
địa: trong đoạn Is 40,3 bằng nguyên ngữ Hipri viết: “Trong sa mạc, các ngươi
hãy dọn…”. Nhưng “kêu trong hoang địa” không có nghĩa là một lời công bố vô
hiệu. Thực ra các tác giả tin mừng có ý ám chỉ đến sa mạc Giu đê tràn ngập
khách thập phương lui tới (x.cc 7.10.15.18.21): “Mọi người từ khắp miền Giu đê
và thành Giê ru sa lem kéo đến với ông” (Mc 1,5).
Thung
lũng: câu trích dẫn trong Mc và Mt ngừng lại ở câu: “hãy sửa cho ngay các lối
đi cong queo” (Is 40,3). Còn Luca thì trích dẫn cách khác (Is 40,4-5), gợi lại
lối đi thênh thang rộng rãi mà Đức Chúa sẽ tiến qua, và mở rộng dành cho tất cả
mọi người (= phổ quát) (“mọi người”; dịch sát chữ: “mọi xác phàm”). X.24,48; Cv
1,8 và 28,28 cũng dùng những từ như thế để chỉ “ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Ở
đây Luca bỏ bớt phần đầu của lời loan báo trong câu trích dẫn: “Lúc đó vinh
quang của Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ông, việc loan báo vinh quang đó không phải
là sứ vụ của Gioan, nó sẽ chỉ tỏ hiện trong ngày phục sinh và chỉ được thực
hiện bởi Chúa Giê su mà thôi.
SỨ ĐIỆP
“Rồi
mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,6)
Thánh
Gioan Tẩy giả nằm ở trung tâm của phụng vụ chủ nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng.
Tuần tới, chúng ta sẽ nghe sứ điệp Ngài mời gọi hoán cải, còn hôm nay Luca nói
về sứ mạng tiên tri của Ngài, bằng cách trích dẫn lời tiên tri Isaia: “Mọi lũng
sâu phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, đường quanh co phải uốn
lại cho ngay, đường gồ ghề phải san cho bằng, rồi mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu
rỗi của Thiên Chúa”( Lc 3, 5-6).
Lời
sấm trên cho thấy các hố sâu phân chia giữa con người, giữa các tầng lớp xã
hội, giữa các dân tộc sẽ được lấp đầy để hình thành một thế giới nơi mà tất cả
mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa và sẽ được tôn trọng. Một thế giới
khác hẳn thế giới của Ti-bê-ri-ô, Phi-la-tô, Hê-rô-đê, Phi-lip, Ly-sa-ni-a,
An-na và Cai-pha. Thế giới ấy nằm dưới gót giày chinh phục, áp bức và bất công.
Còn trong Vương quốc của Thiên Chúa, tất cả những lạm dụng quyền lực sẽ biến
mất, vì: “Tất cả mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Giống
như tất cả các sách Tin Mừng khác, Tin mừng Luca không phải là một cuốn sách
lịch sử, nhưng là một chứng nhân đức tin. Tuy nhiên, sự kiện Ngài cẩn thận đặt
hoạt động của Gioan Tẩy Giả vào khung cảnh lịch sử thế giới đã gán cho câu
chuyện một đặc tính nhập thể, rất sát thực tế trong thời gian và
không gian. Trên sân khấu thế giới thời ấy, những nhân vật lớn được long trọng
giới thiệu: Hoàng đế Ti-bê-ri-ô, Tổng trấn Phi-la-tô, các Tiểu Vương, Thượng tế
An-na và Cai-pha. Bên cạnh những bậc
quyền quí ấy, Gioan Tẩy Giả chỉ là một dung mạo mờ nhạt. Tuy nhiên, giờ đây,
sau 2000 năm, Gioan Tẩy giả luôn luôn được lắng nghe, được bắt chước và được cử
hành trong khi những người kia bị bụi thời gian phủ lấp. Ti-bê-ri-ô, hoàng đế
đầy quyền uy thuở nào, giờ chỉ còn là bức tượng tàn phai với thời gian trước sự
thờ ơ của mọi người. Tương tự như thế, một trăm năm nữa, các nhà lãnh đạo thế
giới hiện nay sẽ trở nên như thế nào? Họ có được vị trí nào trong tâm hồn con
người?
Sau
khi nhấn mạnh khía cạnh phù du của các nhà lãnh đạo thế giới, Luca đề cao sự
kiện Lời của Thiên Chúa được lắng nghe, không phải bởi hoàng đế La Mã, các Tiểu
Vương hay các thượng tế, nhưng bởi Gioan Tẩy Giả. Lời Chúa “đến với” con trai
của Dacaria nơi sa mạc. Rồi ngang qua Ngài, Lời ấy sẽ đến với chúng ta qua bao
thế kỷ. Và cho đến ngày nay, Lời vẫn tiếp tục đến qua những người rất bình
thường: họ là những người hi sinh đi thăm viếng các bệnh nhân, những người con
hiếu thảo lo lắng chăm sóc cha mẹ già yếu của mình, những người quảng đại chia
sẻ những gì mình có cho những người nghèo khổ, những người chịu đựng bách hại
để sống trọn vẹn niềm tin của mình, vv..!
Sa
mạc nơi Gioan Tẩy giả ở là một nơi mà mọi tước hiệu và đặc quyền không còn ý
nghĩa nào cả, nơi mọi người khám phá ra chính mình và tìm kiếm bản sắc riêng
cho mình. Trong môi trường ấy, Lời của Thiên Chúa “đến với Gioan”. Ý nghĩa thời gian dài Mùa Vọng nằm trong cụm
từ: “tiếp nhận Lời Thiên Chúa”, lắng nghe Lời có sức biến đổi, biến chúng ta
thành những người mới. Với những lời này, Chúa Kitô trở thành “Đường, sự Thật
và sự Sống” cho chúng ta. Tin Mừng hôm
nay xác nhận những gì Phaolô nói với tín hữu Cô rin tô: “Các thức mà Thiên Chúa
dùng để dạy dỗ chúng ta là chọn những gì thấp hèn nhất để làm điêu đứng những
gì mạnh mẽ nhất”.
Theo
cách sự phạm ấy, hôm qua cũng như hôm nay, lịch sử tiến bước được là nhờ những
con người đặc sủng đã tiếp nhận lời Chúa đến với mình:
-
Thế kỷ thứ sáu, Thánh Bê-nê-đi-tô, thông qua các tu viện của mình, rao giảng
Tin Mừng cho châu Âu;
-
Vào thế kỷ 13, thánh Phan-xi-cô As-si-si, sống chỉ có 26 năm mà đã thay đổi
triệt để Giáo Hội thời đại của mình;
-
Thế kỷ 14, Thánh nữ Ca-ta-ri-na thành Sie-na đưa Đức Giáo hoàng Grê-gô-ri-ô XI
từ A-vi-gnon trở lại Ro ma;
-
Vào thế kỷ 16, Tê-rê-xa A-vi-la và I-nha-xi-ô Lô-yô-la đổi mới đời sống tôn
giáo;
-
Thế kỷ 20, Thầy An-rê phục hồi đức tin và niềm hy vọng của quần chúng;
-
Và gần đây hơn cả, Mẹ Tê-rê-xa mang lại cho thế giới một khuôn mặt mới của lòng
nhân lành của Thiên Chúa.
Lời
của Thiên Chúa đã ngự xuống trên các bậc anh hùng ấy, và thế giới đã được biến
đổi. Hôm nay, lời của Thiên Chúa cũng “ngự xuống trên mỗi người chúng ta”.
ĐÀO SÂU
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN
Br
5,1-9 Trên đường hướng về Giê-ru-sa-lem mới
Tv
126,1-2a, 2b-3, 4-5, 6Thiên Chúa sẽ hướng dẫn Dân Người trong hân hoan
Pl
1,3-6, 8-11 Anh em hãy nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ
đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm
Lc
3,1-6 Gioan Tẩy giả chuẩn bị con đường cho Chúa ngự đến
1. HỎI: Ba bài đọc liên
kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN.
Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nỗng, phải lấp đầy thung lũng
cho mặt đất phẳng phiu (Bđ 1). Gioan tẩy giả kêu gọi mọi người hãy sám hối và
cải thiện đời sống (BTM). Và Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Phi-lip-phê tăng
cường tình mến và cố gắng sống tinh tuyền không làm gì đáng trách trong khi chờ
đợi Chúa quang lâm (Bđ2).
2. HỎI: Tác giả sách
Ba-rúc là ai?
THƯA: Bài đọc một trích từ
quyển sách mạo xưng là sách Ba-rúc, thư kí của tiên tri Giê-rê-mi-a. Thực ra
đây là công trình biên soạn của một tiên tri vào thế kỉ thứ 2 trước Công
nguyên, hết lòng ngưỡng mộ thầy mình là Tiên tri Giê-rê-mi-a.
3. HỎI: Bài đọc một nói
gì?
THƯA: Dù trích từ sách Ba-rúc được
viết vào thế kỉ thứ 2, nhưng bài đọc một mang nhiều âm hưởng hi vọng của tiên
tri I-sai-a trước đó nhiều thế kỉ. Đó là lời sấm loan báo cho dân lưu đày tin
vui: sắp chấm dứt thời khổ nhục, Thiên Chúa sẽ đưa họ trở về cố hương. Một thời
kì mới bắt đầu, mọi nơi trên khắp trái đất sẽ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa ở
với họ.
4.
HỎI: Sách Ba-rúc đã dùng hình ảnh nào để loan báo tin vui cứu độ ấy?
THƯA:
Để loan báo tin vui cứu độ, Ba-rúc đã dùng những hình ảnh nầy:
-
Sa mạc nằm giữa Ba-by-lon và Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành một xa lộ đưa dân trở
về.
-
Sa mạc đồng khô cỏ cháy sẽ rực rỡ trổ bông, nước sẽ vọt lên và tuôn ra từ các
khe suối.
-
Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, người què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
-
Sẽ không còn sư tử, thú dữ ăn thịt sẽ không còn vãng lai.
5. HỎI: Có liên hệ nào
giữa lời sấm sách Ba-rúcvà sách tiên tri I-sai-a không?
THƯA: Có. Để khơi lại niềm hi
vọng của những người đương thời, tác giả đã chép lại những sấm ngôn chan chứa
niềm hi vọng nổi tiếng từ sách I-sai-a.
6. HỎI: Thí dụ như những
lời sấm nào?
THƯA: Lời sấm loan báo người Do thái lưu đày sẽ trở về quê hương.
I-sai-a đã kể lại rằng sa mạc giữa Giê-ru-sa-lem và Ba-by-lon sẽ trở thành xa
lộ dẫn đoàn người trở về. ‘Có tiếng hô: ‘Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho
ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng
ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm
sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu’ (Is 40, 3-4).
7. HỎI: Ba-rúcđã lặp lại
như thế nào?
THƯA: Ba-rúc loan báo: ‘Thiên
Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy
thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh
quang của Thiên Chúa’ (Br 5, 7).
8. HỎI: Con đường trở về
được I-sai-a mô tả như thế nào?
THƯA: Để loan báo cuộc trở về như một phép lạ Thiên Chúa thực hiện,
I-sai-a nói: ‘Và trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với
ô-liu; trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào
du, nào hoàng dương’ (41, 19).
9. HỎI: Và Ba-rúcđã lặp
lại như thế nào?
THƯA: Ba-rúc lặp lại: ‘Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ
loại quế trầm sẽ tỏa bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi
trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của
Người’ (5,8-9).
10. HỎI: Còn về vinh quang
tương lai của Giê-ru-sa-lem?
THƯA: I-sai-a loan báo: ‘Hỡi
Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh! Hỡi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem,
hãy mặc lễ phục huy hoàng!’ (Is 52, 1).
11. HỎI: Ba-rúcđã lặp lại
như thế nào?
THƯA: ‘Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy
cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho
ngươi’ (5, 1).
12. HỎI: Ba-rúc viết những
lời sấm ấy cho ai?
THƯA: Ông viết những lời sấm ấy
cho những người Do thái trong các cộng đoàn kiều bào. Đó là những cộng đoàn Do
thái ở rải rác khắp nơi trong thế giới Hi-la cảm giác như bị lưu đày xa
Giê-ru-sa-lem.
13. HỎI: Ông đã khuyên nhủ
họ như thế nào?
THƯA: Ông đã khuyên nhủ họ an
tâm tin tưởng rằng dù phải trải qua những thăng trầm lịch sử, chương trình của
Thiên Chúa về Giê-ru-sa-lem và toàn thể nhân loại cuối cùng sẽ được thực hiên.
14. HỎI: Bài đọc 2 (Pl 1,
4-6.8-11) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô khen ngợi
các tín hữu Phi-líp-phê về những việc tốt lành mà họ đã làm và Ngài khuyến họ
tăng cường hơn nữa đời sống yêu thương, để được trở nên tinh tuyền và không gì
đáng trách trong Ngày Chúa Ki-tô Quang Lâm.
15. HỎI: Ngữ cảnh bài Tin
mừng như thế nào?
THƯA: Nằm trong ngữ cảnh của
việc chuẩn bị sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (3,1-4,13), bài Tin mừng 3,1-6 nói
về sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Sau đó Luca còn bàn thêm về lời rao giảng của ông
(3,7-18) và việc ông bị tống ngục (3,19-20). Có 2 ý chính: 1. Bối cảnh lịch sử
và tôn giáo (3,1-2); 2. Công việc của Gioan (3,3-6).
16. HỎI: Diện mạo của
Gioan Tẩy giả tiêu biểu điều gì và có thể được coi là một tiên tri lớn theo
kiểu các tiên tri lớn trong Cựu ước không?
THƯA: Gioan Tẩy giả là gạch nối
giữa Cựu Ước và Tân Ước, và được coi là tiên tri lớn cuối cùng của Cựu Ước,
được Thiên Chúa sai đến để loan báo Ơn Cứu độ Người sẽ ban cho toàn thể loài
người chứ không riêng cho người Do thái. Ngoài ra, ông còn chứng thực bằng hành
động và lời rao giảng rằng những gì I-sai-a (Is 40) đã báo trước nay được hoàn
thành.
17. HỎI: Chủ ý của Luca là
gì khi trích dẫn I-sai-a là gì?
THƯA: Chủ ý của Luca trong đoạn
Tin mừng nầy cũng như trong toàn sách Tin mừng của Ngài là cho thấy tầm mức phổ
quát của ơn Cứu độ mà Đức Ki tô mang lại.
18. HỎI: Năm thứ 15 dưới
triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô là năm thứ mấy?
THƯA: Dường như là vào khoảng
năm 27 hoặc 28 sau Công Nguyên.
19. HỎI: Những địa danh mà
Luca nói đến là những vùng đất nào?
THƯA: Luca nói đến hai tỉnh Do
thái là Ga-li-lê và Giu-đê, và ba tỉnh ngoại giáo ở phía Bắc là I-tu-rê,
Tra-khô-nít và A-bi-lên. Qua các địa danh trên, dù chưa bao quát toàn vùng,
Luca muốn gợi ý là Thiên Chúa ban ơn cứu độ không những cho người Do thái mà
còn cho dân ngoại nữa. Đó là tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Lu ca luôn đề
cao trong tác phẩm của mình.
20. HỎI: Các nhân vật lãnh
đạo tôn giáo được Luca nói đến là ai?
THƯA: Các nhân vật được Luca
nói đến là các Thượng tế An-na và Cai-pha. Theo Luật thì chỉ có một Thượng tế
duy nhất đương nhiệm:An-na từ năm 6 đếnnăm 15 và con rể của ông là Cai-pha từ
năm 18 đến năm 36. Sở dĩ Thánh Luca nói tới hai vị cùng một trật có lẽ vì ngài
muốn cho thấy An-na có một ảnh hưởng sâu rộng đến con rể của mình. Ngoài ra, cả
hai đóng vai trò quan trọng trong việc xử án Chúa Giê su (Ga 18, 13).
21. HỎI: Sứ mạng tiên tri
của Gioan bao gồm những gì?
THƯA: Cũng như các tiên tri
khác mời gọi người đương thời hoán cải trở về với Thiên Chúa của giao ước,Gioan
Tẩy giả cũng đi khắp nơi, ‘rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám
hối để được ơn tha tội’. Ngài còn mời gọi người Do thái vào sa mạc để tìm lại
lòng nhiệt thành của Gio-su-ê và dân Híp pri khi vượt qua sông Gio-đan để vào
đất hứa.
22. HỎI: Tiên tri I-sai-a
loan báo cho người bị lưu đày điều gì?
THƯA: Với những người bị lưu đày
tưởng rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi họ, tiên tri I-sai-a loan báo rằng Thiên Chủa
sẽ dẫn họ lên đường trở về cố hương. Họ không còn phải vất vả khổ cực mở đường
trong sa mạc để kính thần ngoại bang nữa. Nhưng Thiên Chúa sẽ mở một con đường
băng qua sa mạc, và Ngài sẽ dẫn đầu đám rước đoàn người lưu đày hân hoan trở
về.
23 HỎI: Gioan Tẩy giả có ý
gì khi nói: ‘rồi mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa’?
THƯA: Gioan Tẩy giả mượn lời
sấm Tiên tri I-sai-a để công bố cho người đương thời biết ơn cứu độ phổ quát
của Thiên Chúa: giờ đây không phải những người lưu đày ở Ba-by-lon, mà tất cả
mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ ban ơn Cứu độ
cho tất cả những ai biết trông đợi và tiếp nhận Ngài.
24. HỎI: Thực thi sứ điệp
ấy như thế nào?
THƯA: Để dọn đường cho Chúa Cứu
Thế đến, chúng ta phải:
1. Canh tân đời sống cá
nhân, có nghĩa là: ĐỔI MỚI từ tình trạng tội lỗi sang tình trạng sạch tội; từ
tình trạng khô khan, nguội lạnh sang tình trạng đạo đức, sẵn sàng dấn thân,
phục vụ tha nhân
2. Dấn thân phục vụ một xã
hội công bằng hơn.
GLCG535.Ông
Gio-an rao giảng ‘phép rửa tỏ lòng thống hối để được ơn tha tội’ (Lc 3,3). Đông
đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính, Pha-ri-sêu và Sa-đốc, cùng những
cô gái điếm, đến xin ông làm phép rửa. ‘Bấy giờ Chúa Giêsu cũng đến’. Gio-an
ngần ngại, nhưng khi Chúa Giêsu khẩn hoản yêu cầu, thì ông giúp Người chịu phép
rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giêsu,
và có tiếng phán từ trời: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta’ (Mt 3,l3-l7). Đây là việc
Chúa Giêsu tỏ mình ra (‘Hiển Linh’) với tư cách là Đấng Messia của Israel và là
Con Thiên Chúa(x. Gioan Tẩy giả 717-720).